An toàn thực phẩm và Vệ sinh thực phẩm
dưới góc độ các quy định pháp luật của Liên minh châu Âu (EU)
PGS.TS Nguyễn Xuân Hồng - Chủ tịch Hội LVVN
An toàn và vệ sinh thực phẩm luôn là mối quan tâm hàng đầu đối với tất cả mọi người trên toàn Thế giới. Tuy nhiên, nhiều người vẫn có cách hiểu khác nhau đối với các khái niệm “ an toàn thực phẩm” và “ vệ sinh thực phẩm”. Ngay cả tại các nước phát triển, không ít người tiêu dùng vẫn đặt câu hỏi đối với các nhà quản lý: “ An toàn thực phẩm khác với vệ sinh thực phẩm như thế nào?”
Bài viết này xin cung cấp một số thông tin có thể giúp người tiêu dùng, người sản xuất và các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu nông sản phân biệt giữa “an toàn thực phẩm” và “ vệ sinh thực phẩm” dưới góc độ các quy định pháp luật về an toàn và vệ sinh thực phẩm của EU.
Có thể nói, quy định về an toàn và vệ sinh thực phẩm của EU rất cao, rất nghiêm ngặt nhưng rất minh bạch. Mô hình quản lý an toàn thực phẩm của EU tỏ ra rất hiệu quả và được nhiều nước trên Thế giới, kể cả các nước phát triển cao phải nghiên cứu, học hỏi. Đối với nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam thì EU được coi là một thị trường “ khó tính”. Cùng với quy định về kiểm dịch động, thực vật, các quy định về an toàn và vệ sinh thực phẩm của EU là hàng rào kỹ thuật mà các nước xuất khẩu nông sản sang EU phải tuân thủ. Tuy nhiên, nếu thực hiện tốt các quy định của EU thì đây lại là một thị trường rất tiềm năng, luôn ổn định, có giá trị cao và có sức hấp dẫn lớn đối với cả người sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, đặc biệt là rau, quả- các sản phẩm chính của nghề làm vườn. Đối với Việt Nam, Hiệp định thương mại tự do EU- Việt Nam (EVFTA) đang tạo ra những cơ hội rất thuận lợi cho việc xuất khẩu rau quả tươi và chế biến sang thị trường EU.
EU có quy định (EU) 178/2002 về An toàn thực phẩm (Regulation on food safety) nhưng vẫn có quy định (EU) 852/2004 về Vệ sinh thực phẩm (Regulation on food hygiene) đều do Nghị viện châu Âu ban hành mà các doanh nghiệp cung ứng thực phẩm đều phải tuân thủ trên toàn lãnh thổ EU. Điều này cho thấy giữa an toàn thực phẩm và vệ sinh thực phẩm phải có sự khác biệt nào đó nên mới có 2 văn bản luật của EU có giá trị pháp lý như nhau cùng song song tồn tại và các tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm đồng thời phải tìm hiểu, tuân thủ các quy định trong cả 2 văn bản pháp luật này.
Theo quy định về an toàn thực phẩm của EU, Thực phẩm không được bán trên thị trường nếu nó không an toàn. Thực phẩm được coi là không an toàn nếu :
(a) có hại cho sức khỏe;
(b) không thích hợp cho tiêu dùng của con người
Người kinh doanh thực phẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về an toàn thực phẩm đối với thực phẩm mà người đó cung ứng trên thị trường. Đến lượt mình, các doanh nghiệp cung ứng thực phẩm của EU lại yêu cầu các nhà sản xuất, xuất khẩu phải thực hiện tốt các quy định để đảm bảo an toàn và vệ sinh thực phẩm thông qua các điều khoản trong ký kết hợp đồng giữa các đối tác trong chuỗi sản xuất, cung ứng thực phẩm.
Các yếu tố chính của an toàn thực phẩm bao gồm:
Vệ sinh thực phẩm là một khía cạnh thiết yếu của an toàn thực phẩm. Nó đề cập đến các quá trình liên quan trực tiếp đến thực phẩm - bao gồm bảo quản, chuẩn bị và nấu nướng. Thực hành tốt trong những lĩnh vực này đảm bảo rằng khách hàng nhận được thực phẩm an toàn và như được doanh nghiệp khuyến cáo.
Các yếu tố chính của vệ sinh thực phẩm bao gồm:
Tóm lại, an toàn thực phẩm nhằm đảm bảo rằng thực phẩm sẽ không gây hại cho người tiêu thụ. Vệ sinh thực phẩm bao gồm các biện pháp và điều kiện cần thiết để đảm bảo an toàn thực phẩm trong tất cả các khâu của chuỗi cung ứng thực phẩm.
Mặc dù có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nhưng giữa vệ sinh thực phẩm và an toàn thực phẩm vẫn có sự khác biệt. Các thuật ngữ an toàn thực phẩm và vệ sinh thực phẩm không thể được sử dụng thay thế cho nhau.
Người sản xuất và các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả sang thị trường EU cần nghiên cứu kỹ các quy định pháp luật của EU về an toàn thực phẩm và vệ sinh thực phẩm để thực hiện nhằm đáp ứng quy định của các nước nhập khẩu. Tuy nhiên, các quy định pháp luật bắt buộc thực hiện của EU mới chỉ là những quy định mang tính “tối thiểu” hoặc “ quy định sàn”. Hầu hết các nhà nhập khẩu của EU khi ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp xuất khẩu còn có thể đưa ra những yều cầu khác mà EU gọi là “ các yêu cầu tự nguyện” (voluntary requirements) theo thỏa thuận giữa các bên, Ngoài việc tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành để được phép nhập khẩu vào EU, các nhà nhập khẩu của EU thường yêu cầu các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm cho họ phải có chứng chỉ Global GAP hoặc tương đương, đảm bảo tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội và môi trường của doanh nghiệp… Một số chuỗi siêu thị còn đưa ra yêu cầu mức tối đa tồn dư thuốc BVTV trong rau quả không được vượt quá 33% so với quy định pháp luật của EU…Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu nông sản sang thị trường EU nên chú ý trong việc tìm kiếm các đối tác phù hợp và tìm hiểu kỹ yêu cầu của họ.
Các quy định của EU về an toàn và vệ sinh thực phẩm có thể được điều chỉnh, thay đổi, khi cần thiết thì pháp luật EU cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp tạm thời để ngăn chặn kịp thời các mối nguy về an toàn thực phẩm. Việc thay đổi quy định hoặc áp dụng các biện pháp kịp thời của EU đều được thông báo công khai trên các nền tảng công nghệ thông tin theo quy định của Hiệp định SPS, hoặc hệ thống cảnh báo nhanh (RASFF). Vì vậy, các doanh nghiệp nên thường xuyên theo dõi, cập nhật thông tin về việc bổ sung, sửa đổi các quy định hoặc áp dụng các biện pháp tạm thời của EU đối với các quốc gia, sản phẩm cụ thể./,
Tài liệu tham khảo chính
Bạn đánh giá như thế nào về hoạt động của Hội Làm vườn Việt Nam |
Hoạt động có hiệu quả |
Hoạt động không hiệu quả |
Không có ý kiến |