CHẾ PHẨM VI SINH - 8. Vài trò quan trọng trong nông nghiệp tuần hoàn - Hội Làm vườn Việt Nam

CHẾ PHẨM VI SINH 8. Vài trò quan trọng trong nông nghiệp tuần hoàn

BBT: Việc sử dụng các chế phẩm vi sinh vật ( men vi sinh) là rất phổ biến, có thể nói là không thể thiếu trong NNTH nhằm thúc đẩy các quá trình chuyển hóa chất thải hữu cơ theo nguyên tắc chất thải của quá trình này trở thành đầu vào của quá trình sản xuất sản phẩm khác.  

CHẾ PHẨM VI SINH - 8. Vài trò quan trọng 

trong nông nghiệp tuần hoàn (NNTH)

TS. Phạm Đồng Quảng - Hội Làm vườn Việt Nam (VACVINA) 

 

1. NNTH thực chất là thiết lập các vòng tuần hoàn khép kín của chất thải hữu cơ

- Nông nghiệp tuần hoàn (NNTH - circular agriculture) là một bộ phận của kinh tế tuần hoàn. Có nhiều định nghĩa khác nhau về NNTH, nhìn chung có thể hiểu NNTH là phương thức sản xuất nông nghiệp theo một chu trình khép kín mà ở đó chất thải hay phế phụ phẩm của quá trình sản xuất này là đầu vào của quá trình sản xuất khác, thông qua việc bố trí cây trồng - vật nuôi, các công đoạn sản xuất và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.

Ví dụ điển hình của NNTH, mà cha ông ta đã làm từ xa xưa, là vòng tuần hoàn giữa trồng trọt - chăn nuôi, ở đó cây trồng lấy nước, chất dinh dưỡng từ đất, thông qua quang hợp tạo ra các chất hữu cơ làm nguồn thức ăn cho vật nuôi -> vật nuôi thải ra phân, nước giải -> chúng được thu gom, chế biến thành phân bón -> quay trở lại bón cho cây trồng.

 

- Khác với lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, chất thải trong lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu là chất hữu cơ, trừ một lượng nhỏ chất thải vô cơ ( chất thải  nhựa: bao bì phân bón, thuốc BVTV, thuốc thú y;  dụng cụ thu ý, màng phủ… xử lý theo quy trình công nghiệp).

- Theo báo cáo tại Hội thảo quốc tế “ Phụ phẩm nông nghiệp - Nguồn tài nguyên tái tạo” của Bộ NN&PTNT ngày 28/9/2022, tổng khối lượng phụ phẩm năm 2020 của cả nước là trên 156,8 triệu tấn bao gồm 88,9 triệu tấn phụ phẩm sau thu hoạch từ cây trồng, từ quá trình chế biến nông sản của ngành trồng trọt (chiếm 56,7%); 61,4 triệu tấn phân gia súc, gia cầm từ ngành chăn nuôi (chiếm 39,1%); 5,5 triệu tấn từ ngành lâm nghiệp (chiếm 3,5%) và khoảng gần 1 triệu tấn từ ngành thủy sản. Phần sinh khối phụ phẩm từ trồng trọt hàng năm có thể cung cấp tương đương với khoảng 43 triệu tấn hữu cơ, 1,8 triệu tấn đạm urê, 1,6 triệu tấn supe lân đơn và 2,2 triệu tấn kali sulfat, song mới có khoảng 10% phụ phẩm trồng trọt được sử dụng làm chất đốt tại chỗ, 5% làm nhiên liệu công nghiệp, 3% làm thức ăn gia súc; còn hơn 80% chưa được sử dụng và thải trực tiếp ra môi trường hoặc đốt bỏ gây ô nhiễm môi trường.Trong lĩnh vực chăn nuôi, cả nước hiện có khoảng 5 - 6 triệu hộ gia đình có hoạt động chăn nuôi và 23.500 trang trại chăn nuôi tập trung với khối lượng nguồn thải ra môi trường khoảng 84,5 triệu tấn/năm, trong đó, chỉ khoảng 20% được sử dụng hiệu quả (làm khí sinh học, ủ phân, nuôi trùn, cho cá ăn...) còn lại 80% thải ra môi trường...

- Mục đích của NNTH là sử dụng triệt để nguồn chất thải hữu cơ nói trên, không cho thoát ra môi trường bằng cách thiết lập nên các vòng tuần chất thải hoàn khép kín theo nguyên lý chất thải của quá trình sản xuất này trở thành nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất sản phẩm khác.

           Ví dụ một số mô hình NNTH với các vòng tuần hoàn của chất thải hữu cơ ( rơm rạ, phân gia súc, gia cầm):

           + Trồng lúa - > rơm rạ ủ với chế phẩm vi sinh -> thức ăn cho trâu, bò -> phân trâu bò ủ chế phẩm vi sinh -> phân bón hữu cơ cho trồng lúa;

           + Trồng lúa -> rơm rạ -> giá thể + bào tử nấm rơm -> nấm ăn và bã giá thể thành phân bón cho lúa, cây trồng khác…

           + Trồng lúa -> rơm rạ, trầu… + chế phẩm vi sinh -> đệm lót sinh học chăn nuôi lợn, gia cầm -> phân hữu cơ  -> bón cho lúa…

            - Tóm lại, từ các mô hình trên, có thể hiểu NNTH là việc bố trí cây trồng - vật nuôi, các công đoạn sản xuất và áp dụng các TBKT, công nghệ sao cho tất cả chất thải phát sinh được thu gom, tái chế, tái sử dụng trong vòng tuần hoàn khép kín theo nguyên tắc chất thải của quá trình sản xuất này thành nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất sản phẩm khác, không để chất thải phát tán ra môi trường. Vì vây, có thể coi “chu trình sản xuất khép kín” trong NNTH xét cho cùng đó là “vòng tuần hoàn khép kín của chất thải hữu cơ” phát sinh trong quá trình sản xuất.

 

2. Vai trò của chế phẩm sinh học trong NNTH 

           Chất thải trong nông nghiệp chủ yếu là chất hữu cơ, do đó hệ vi sinh vật có vai trò rất quan trọng trong các quá trình phân giải sinh học nhằm tái chế, tái sử dụng nguồn chất thải hữu cơ trở thành các sản phẩm có ích trong NNTH. Vì vậy, việc sử dụng các chế phẩm vi sinh vật ( men vi sinh) là rất phổ biến, có thể nói là không thể thiếu trong NNTH nhằm thúc đẩy các quá trình chuyển hóa chất thải hữu cơ diễn ra nhanh, mạnh, hiệu quả hơn.

           Vai trò của chế phẩm vi sinh trong NNTH thông qua một số quá trình chuyển hóa chất hữu cơ phổ biến như sau:

           - Chất thải trồng trọt, chăn nuôi + chế phẩm sinh học -> phân bón hữu cơ compost cho cây trồng.

           - Sản phẩm, phụ phẩm trồng trọt + chế phẩm sinh học - > thức ăn cho lợn, trâu, bò, gia cầm…

          - Chế phẩm sinh học + công nghệ biogas -> khử mùi hôi thối, phân bón cho trồng trọt, khí đốt cho sinh hoạt.

            - Phụ phẩm ( trấu, mùn cưa, rơm ra…) + chế phẩm sinh học -> đệm lót sinh học cho chăn nuôi.

           - Phụ phẩm ( trấu, mùn cưa, rơm ra.…) + bào tử nấm ( giống nấm rơm) -> nấm ăn, phân bón hữu cơ cho cây trồng...

           

 

 

Gửi ý kiến của bạn


Liên kết website

Video Clip

Thông tin tiện ích

CÔNG TY TNHH NÔNG NGHIỆP XANH VIỆT NAM Công ty phượng hoàng

Thăm dò ý kiến

Bạn đánh giá như thế nào về hoạt động của Hội Làm vườn Việt Nam
Hoạt động có hiệu quả
Hoạt động không hiệu quả
Không có ý kiến
 
Danh bạ điện thoại Hỏi đáp Văn bản Liên hệ

FaceBook

Thống kê truy cập

  • Trực tuyến: 14
  • Lượt xem theo ngày: 5464
  • Tổng truy cập: 3830362