SẢN XUẤT NÔNG SẢN SẠCH Ở VIỆT NAM THỰC TRẠNG, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP![]() BBT – Ngày 15 tháng 9 năm 2017 tại Hà Nội , Báo Kinh tế nông thôn (Hội Làm vườn Việt Nam ) phối hợp với Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn (Bộ Nông nghiệp & PTNT) và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cùng các đơn vị liên quan tổ chức Diễn đàn “Chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp sạch ứng dụng công nghệ cao”. GS. TS Ngô Thế Dân – Chủ tịch HLV VN đã tham dự và phát biểu ý kiến. Để tìm hiểu thêm về vấn đề trên, BBT xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc “Sản xuất nông nghiệp sạch ở Việt Nam –thực trạng thách thức và giải pháp” bài viết của GS.TS Ngô Thế Dân và PGS.TS Nghuyễn Xuân Hồng .
SẢN XUẤT NÔNG SẢN SẠCH Ở VIỆT NAM- THỰC TRẠNG, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP I. Khái niệm về nông nghiệp sạch và nông sản sạch Trong những năm gần đây, khi vấn đề an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường ngày càng trở nên bức xúc, thu hút sự quan tâm đặc biệt của của cộng đồng, cụm từ “nông nghiệp sạch” và “nông sản sạch” luôn được nhắc đến nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đã xuất hiện nhiều cửa hàng kinh doanh nông sản sạch và có nhiều doanh nghiệp mang tên doanh nghiệp nông nghiệp sạch, nhiều diễn đàn về nông nghiệp sạch và nông sản sạch được tổ chức. Tuy nhiên, cho đến nay, trong các văn bản pháp luật và các tài liệu khoa học của Việt Nam hầu như chưa có định nghĩa chính thức và thống nhất về các khái niệm này. Trên các phương tiện truyền thông, có các ý kiến khác nhau về khái niệm nông sản sạch. Nhiều người cho rằng nông sản sạch là nông sản không bị “nhiễm bẩn” bởi các tác nhân độc hại, có thể gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người sử dụng và nông sản sạch đồng nghĩa với nông sản an toàn ( ví dụ, rau an toàn được gọi tắt là rau sạch). Một số người khác lại cho rằng nông sản sạch là nông sản hữu cơ, được sản xuất theo phương pháp hữu cơ không dùng hóa chất tổng hợp như phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kích thích sinh trưởng, chât bảo quản, vật liệu biến đổi gen… Trên Thế giới, đặc biệt là tại một số nước phát triển cao như Mỹ, EU…, nơi mà an toàn thực phẩm luôn được đảm bảo tốt cũng có các khái niệm tương tự, đó là “ clean food” ( thực phẩm sạch), “clean eating” (ăn sạch). Từ những năm 1990, tại các nước này đã xuất hiện một trào lưu sử dụng” clean food”. Nhiều khách sạn, nhà hàng chuyên cung cấp “ clean food” với giá cao hơn bình thường. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn hiểu khác nhau về khái niệm “ clean food- thực phẩm sạch”. Những người hiểu theo nghĩa hẹp thì cho rằng thực phẩm sạch là thực phẩm giữ được chất lượng tự nhiên vốn có của nó, không nhiễm các hoá chất của quá trình chế biến, bảo quản, kể cả các hoá chất này được pháp luật cho phép sử dụng và không bị lạm dụng. Nhiều người khác hiểu theo nghĩa rộng lại cho rằng ngoài các yêu cầu nói trên thực phẩm sạch còn phải có tính nhân văn, được sản xuất bởi những người có “ lương tâm sạch” ( chấp hành tốt pháp luật, có ý thức bảo vệ môi trường, vì lợi ích người tiêu dùng…). Người mua trả giá cao hơn cho người sản xuất thực phẩm sạch không phải chỉ vì thực phẩm sạch an toàn hơn và tốt hơn cho sức khoẻ của người tiêu dùng mà còn có ý nghĩa nhân văn, đó là muốn góp phần bảo vệ môi trường và khuyến khích những người thực hành sản xuất nông nghiệp tốt. Gần đây, cụm từ “nông nghiệp sạch” đã được sử dụng trong một văn bản pháp quy của Bộ Nông nghiệp và PTNT. Đó là Quyết định số 738/QĐ-BNN-KHCN ngày 14/3/2017 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT về Tiêu chí xác định chương trình, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, danh mục công nghệ cao ứng dụng trong nông nghiệp. Văn bản này đã xác định danh mục các dự án nông nghiệp sạch bao gồm các dự án đáp ứng một trong số các tiêu chí sau: + Dự án thực hiện tại các cơ sở sản xuất kinh doanh được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm; + Dự án của doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao; + Dự án sản xuất sản phẩm nông nghiệp được cấp Giấy chứng nhận VietGAP; + Dự án đầu tư mới vào sản xuất nông nghiệp sạch áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cấp quốc gia hoặc quốc tế tương đương ( VietGAP, GlobalGAP…). Căn cứ văn bản nói trên của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT có thể thấy rằng nông sản sạch ( kết quả của sản xuất nông nghiệp sạch) là “ nông sản an toàn được sản xuất tại các cơ sở sản xuất kinh doanh đủ điều kiện an toàn thực phẩm; ứng dụng công nghệ cao hoặc áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt”. Đặc điểm chung của nông sản sạch, trong đó có nông sản thực phẩm là đáp ứng tốt các yêu cầu về an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường và sức khoẻ cộng đồng. Như vậy, có nhiều cách thức khác nhau để sản xuất ra nông sản sạch và khái niệm về nông sản sạch hiện nay ở Việt Nam vẫn chủ yếu nhấn mạnh đến khía cạnh an toàn thực phẩm. II. Thực trạng vấn đề an toàn thực phẩm và sản xuất nông sản sạch ở Việt Nam Công tác bảo đảm an toàn thực phẩm đóng vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội và bảo vệ sức khoẻ người dân hiện tại và tương lai. Nhà nước, các Bộ, Ngành, các địa phương và toàn xã hội luôn quan tâm, ưu tiên tập trung nguồn lực và ban hành nhiều chính sách, pháp luật để cải thiện tình hình, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra liên quan đến ATTP. Ngày 27/7/2016, Quốc hội khoá XIV đã ban hành Nghị quyết số 14/2016/QH14 về “ Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2017”, theo đó Quốc hội đã chọn giám sát chuyên đề đầu tiên là về “ Việc thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm giai đoạn 2011- 2016”. Có thể nói, kết quả giám sát của Quốc hội vừa qua đã phản ánh đầy đủ và cập nhật về thực trạng công tác ATTP ở nước ta . Trên cơ sở báo cáo của các Bộ, Ngành, địa phương, Chính phủ và kết quả khảo sát thực tế tại 21 tỉnh/thành phố, Đoàn giám sát của Quốc hội đã đánh giá có 8 kết quả chính đáng ghi nhận trong công tác ATTP ở nước ta thời gian qua gồm:
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định đáng khích lệ, công tác thực hiện chính sách, pháp luật về ATTP vẫn bộc lộ những tồn tại và yếu kém. Theo đánh giá của Đoàn Giám sát của Quốc hội thì vấn đề ATTP ở nước ta thời gian qua có lúc, có nơi đã đến giới hạn đỏ- giới hạn báo động. Có 9 tồn tại, yếu kém chủ yếu được nêu ra như sau:
Theo báo cáo của Chính phủ và Bộ Nông nghiệp và PTNT, nguy cơ cao gây mất ATTP tập trung chủ yếu trên các loại nông sản thực phẩm chính có trong bữa ăn hàng ngày của người dân như: rau, củ, quả tươi, thịt, cá… Đối với nhóm thực phẩm nguồn gốc thực vật nguy cơ cao tập trung trên rau, củ, quả tươi với nguyên nhân chính là do việc lạm dụng hoá chất bảo vệ thực vật. Kết quả của Chương trình giám sát Quốc gia cho thấy, trong giai đoạn 2011- 2016, tỷ lệ mẫu rau, củ, quả tươi và sơ chế có tồn dư hoá chất vượt ngưỡng cho phép là 8,47%, trong đó tỷ lệ mẫu có chất cấm là 0,34%. Theo kết quả điều tra của Cục Bảo vệ thực vật thì nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do người dân không thực hiện nguyên tắc ‘ 4 đúng” trong sử dụng thuốc BVTV, chủ yếu là không thực hiện đúng thời gian cách ly và số lần phun thuốc. Tỷ lệ người sản xuất vi phạm các quy định sử dụng thuốc BVTV vẫn ở mức cao: trên 16%. Đối với sản phẩm chăn nuôi, nguy cơ mất ATTP chủ yếu do việc sử dụng hoá chất, chất cấm và nhiễm vi sinh vật.. Tỷ lệ mẫu thịt tươi các loại có tồn dư hoá chất vượt ngưỡng cho phép là 1,59%, tỷ lệ mẫu có chất cấm là 1,27%. Ngoài ra, do không đảm bảo các điều kiện giết mổ, tỷ lệ mẫu thịt bị nhiễm vi sinh vật vượt mức cho phép rất cao: trên 19%. Đối với thuỷ sản, sử dụng các chất cấm và nhiễm vi sinh vật là nguyên nhân chính dẫn đến nguy cơ gây mất ATTP. Kết quả kiểm nghiệm giai đoạn 2011- 2016 cho thấy tỷ lệ mẫu thuỷ sản chứa chất cấm là 1,82%; tỷ lệ mẫu nhiễm vi sinh vật trên 4%. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT, đến đầu năm 2017 có 43 tỉnh có quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn với diện tích đến năm 2010 là trên 120 ngàn ha và có 07 tỉnh có quy hoạch vùng sản xuất cây ăn quả an toàn. Hiện có khoảng trên 1500 cơ sở sản xuất rau theo các tiêu chuẩn GAP với diện tích trên 12 ngàn ha. Tính đến cuối năm 2016 có 599 cơ sở sản xuất rau với trên 3.700 ha và 706 cơ sở sản xuất quả với diện tích trên 12 ngàn ha được chứng nhận VietGAP. Trong chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã triển khai nội dung tái cơ cấu tổ chức chăn nuôi theo các chuỗi liên kết trong sản xuất gắn doanh nghiệp chế tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi với các trại chăn nuôi hoặc thông qua hợp tác xã đến các nông hộ chăn nuôi. Đã đẩy mạnh tổ chức triển khai áp dụng quy trình thực hành tốt trong chăn nuôi (VietGAHP) và đã có trên 100 trang trại chăn nuôi được chứng nhận VietGHAP. Cả nước có 56/63 tỉnh/thành phố đã phê duyệt Đề án quy hoạch cơ sở giết mổ động vật tập trung nhưng việc thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư, quy hoạch, xây dựng cơ sở giết mổ còn chậm được triển khai ở nhiều địa phương. Đến nay, cả nước mới có khoảng trên 900 cơ sở giết mổ tập trung nhưng số lượng cơ sở giết mổ nhỏ lẻ, tự phát vẫn còn khoảng trên 29.500 cơ sở. Trong nuôi trồng thuỷ sản, việc áp dụng thực hành nuôi tốt (GAP) cũng được triển khai nhân rộng. Công nghệ cao trong nuôi trồng thuỷ sản cũng đã được nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn ứng dụng, đạt năng suất cao, như công nghệ thâm canh cá tra ( đạt năng suất 300-0 350 tấn/ha/vụ), tôm thâm canh ( 10-12 tấn/ha/vụ). Một số doanh nghiệp cũng đã có công nghệ siêu thâm canh trong hệ nuôi tuần hoàn khép kín. Tỷ lệ cơ sở nuôi được kiểm tra đạt yêu cầu về ATTP đạt gần 90%, tăng so với năm 2013 trở về trước ( 66%). III. Thuận lợi và thách thức đối với công tác ATTP và sản xuất nông sản sạch ở Việt Nama. a). Thuận lợi: ATTP là một trong những vấn đề mà Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm chỉ đạo, ban hành chính sách hỗ trợ và ưu tiên nguồn lực.
b)Khó khăn: Thực trạng sản xuất, kinh doanh ở nước ta cơ bản vẫn là nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình, trình độ canh tác, công nghệ chế biến, bảo quản lạc hậu.
IV. Một số kiến nghị về giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất nông sản sạch, đảm bảo ATTP Bộ Nông nghiệp và PTNT cần rà soát, đề xuất cơ chế, chính sách tạo động lực, khuyến khích người dân, doanh nghiệp liên kết chuỗi cung ứng nông sản thực phẩm an toàn; chính sách đầu tư hạ tầng và hỗ trợ phát triển các mô hình chuỗi giá trị thực phẩm theo hướng sản xuất quy mô lớn gắn với thị trường tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu, từ đó nhân rộng trong cả nước. Tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản sạch và ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao.
Tin mới hơn
Tin cũ hơn
|
|
Bạn đánh giá như thế nào về hoạt động của Hội Làm vườn Việt Nam |
Hoạt động có hiệu quả |
Hoạt động không hiệu quả |
Không có ý kiến |