XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC THỜI GIAN TỚI

XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC THỜI GIAN TỚI
BBT: Nông sản là một trong những ngành hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực và kết quả đạt được, xuất khẩu nông sản Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh hội nhập và dịch bệnh Covid-19. Làm thế nào để tận dụng cơ hội và vượt qua khó khăn, thách thức là bài toán cần lời giải.

XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC THỜI GIAN TỚI

https://vioit.org.vn/en/strategy-policy/export-of-key-agricultural-products-of-vietnam--opportunities-and-challenges-in-the-coming-time-4384.4144.html

Nông sản là một trong những ngành hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đóng góp tích cực vào kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những nỗ lực và kết quả đạt được, xuất khẩu nông sản Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh hội nhập và dịch bệnh Covid-19. Làm thế nào để tận dụng cơ hội và vượt qua khó khăn, thách thức là bài toán cần lời giải.

1. Thành tựu xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam

Năm 2020 và những tháng đầu năm 2021 là thời điểm khó khăn của kinh tế thế giới và Việt Nam không tránh khỏi những tác động nặng nề, nhất là đối với hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta. Tuy nhiên, tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta năm 2020 vẫn đạt con số ấn tượng: 544 tỷ USD, trong khi nhiều nước trên thế giới vẫn tăng trưởng âm, hoạt động thương mại bị hạn chế đáng kể. Cùng với thành tích ngăn chặn sự lây lan của dịch Covid-19, xuất khẩu được coi là kỳ tích của Việt Nam và đã được nhiều quốc gia khác ghi nhận.

Nông sản là mặt hàng xuất khẩu nổi bật trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua, lập kỷ lục mới với giá trị xuất khẩu đạt 41,2 tỷ USD trong năm 2020 và 22,83 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm 2021. Đó là kết quả đáng kinh ngạc của Việt Nam những người nông dân, doanh nghiệp đã nỗ lực, nắm bắt mọi cơ hội dù là nhỏ nhất để đưa nông sản nước ta ra thế giới trong hoàn cảnh hết sức khó khăn do dịch Covid-19.

Thành tựu xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam được ghi nhận ở các khía cạnh sau:

- Xuất khẩu nông sản Việt Nam tăng trưởng cao và ổn định:

Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực năm 2020 và 5 tháng đầu năm 2021

Không

nông sản chủ lực

2020

5 tháng đầu năm 2021

Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)

Tăng giảm so với năm 2019 (%)

Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD)

Tăng giảm so với cùng kỳ năm 2019 (%)

1

Cơm

3.120

11,2

1.479

0,07

2

Cà phê

2.741

-4,2

1.303

5

3

Cao su, tẩy

2.384

3,6

923

93,9

4

hạt điều

3.211

-2,3

1.288

4,9

5

Hạt tiêu

661

-7,5

387

25,2

6

Trà

218

-7,8

78

9,9

7

Rau

3.269

-12,7

1.770

18

số 8

Sắn và các sản phẩm từ sắn

1.012

4,7

533

27,5

9

Cá mèo

1.490

-25,5

577

7,9

10

Con tôm

3.700

11

1.229

4,9

11

Gỗ và các sản phẩm từ gỗ

12.372

16.2

6.598

61,2

Nguồn: Số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

- Cơ cấu ngành hàng xuất khẩu chuyển dịch theo nhu cầu thị trường, nâng cao lợi thế cạnh tranh của đất nước

Cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng gỗ và sản phẩm gỗ, rau quả, hạt điều và giảm tỷ trọng gạo, cà phê, cao su, chè. Các mặt hàng có tỷ trọng tăng là gỗ và sản phẩm gỗ (tăng từ 2,6 tỷ USD, chiếm 16,6% năm 2009 lên 12,372 tỷ USD, chiếm 30,03% năm 2020), rau quả (tăng từ 438,9 triệu USD, chiếm 2,8 % năm 2009 lên 3,269 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 7,93% năm 2020), hạt điều (tăng từ 846,9 triệu USD, chiếm tỷ trọng 5,4% năm 2009 lên 3,211 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 7,79% năm 2020).

- Thị trường xuất khẩu nông sản được mở rộng và chuyển biến tích cực

Trong 5 tháng đầu năm 2021, châu Á vẫn chiếm thị phần xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 46,5% tổng kim ngạch. Tiếp theo là các thị trường: Mỹ (27%), Châu Âu (10,1%), Châu Phi (1,7%) và Châu Đại Dương (1,3%). Bốn thị trường xuất khẩu chính của nông sản Việt Nam là: Mỹ (24,6%), Trung Quốc (22,6%), Nhật Bản (6,6%), Hàn Quốc (4,9%).

Riêng thị trường Trung Quốc, 5 tháng đầu năm 2021 lượng trái cây tươi xuất khẩu là 2,5 triệu tấn, bằng 76,2% của cả năm 2020. Trong đó, thanh long là loại trái cây có lượng xuất khẩu lớn nhất với 1,2 triệu tấn , tăng 138% so với cùng kỳ năm 2020.

Để đáp ứng yêu cầu nhập khẩu từ Trung Quốc, Bộ NN-PTNT đã cấp 1.703 mã số vùng trồng với diện tích 178.697 ha và 1.776 mã số cơ sở đóng gói sản phẩm trái cây. Hiện Trung Quốc đang xem xét phương án nhập khẩu đối với khoai lang và ớt, bên cạnh 9 loại trái cây đã được xuất khẩu chính ngạch gồm: Xoài, thanh long, chuối, nhãn, vải, dưa hấu, chôm chôm, mít và măng cụt.

Bảng 2: Các thị trường xuất khẩu nông sản lớn nhất của Việt Nam 5 tháng đầu năm 2021

Thị trường xuất khẩu

Giá trị xuất khẩu

(triệu USD)

Thị phần (%)

Hoa Kỳ

5.620

24,6

Trung Quốc

5.155

22,6

Nhật Bản

1.501

6,6

Hàn Quốc

1.115

4,9

Khác

9.439

41,3

Nguồn: Số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

- Tỷ trọng hàng chế biến trong xuất khẩu tăng

Bởi trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp đã tăng cường đầu tư cho chế biến. Các ngành có tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm chế biến cao là cao su, gỗ và thủy sản nên tỷ trọng xuất khẩu thô giảm, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến. Tỷ trọng nông sản qua chế biến tăng từ 21,75% năm 2008 lên 45% năm 2019.

2. Hạn chế xuất khẩu nông sản chủ lực

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu về xuất khẩu trong thời gian qua nhưng hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế như:

- Xuất khẩu nhiều nhưng giá trị thấp

Một số mặt hàng nông sản của Việt Nam đứng đầu thế giới về giá trị xuất khẩu như hồ tiêu, điều, tôm, cá tra, cà phê, đồ gỗ, gạo nhưng thứ hạng về giá xuất khẩu lại rất thấp. Cụ thể, xuất khẩu hồ tiêu đứng thứ 1 thế giới nhưng giá tiêu xuất khẩu của Việt Nam chỉ đứng thứ 8; Hạt điều đứng số 1 thế giới nhưng giá đứng thứ 6, gạo và cà phê đứng ở nhóm 2 và 3 thế giới nhưng giá xuất khẩu chỉ đứng thứ 10. Giá trị xuất khẩu thấp chủ yếu do Việt Nam vẫn xuất khẩu nhiều ở dạng thô và sơ chế (chiếm khoảng 60%).

- Xuất khẩu còn phụ thuộc nhiều vào một số thị trường

Giai đoạn 2010 - 2021, xuất khẩu nông sản phụ thuộc vào hai thị trường là Trung Quốc và Hoa Kỳ chiếm 47,2% tổng giá trị xuất khẩu nông sản trong 5 tháng đầu năm 2021. Mức độ phụ thuộc vào các thị trường như Trung Quốc và Hoa Kỳ ngày càng tăng. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc tăng từ 14,7% năm 2010 lên 22,6% trong 5 tháng đầu năm 2021. Trong đó, Việt Nam xuất sang Trung Quốc hơn 70% mặt hàng rau quả. Trung Quốc (Tổng cục Hải quan Việt Nam).

- Chất lượng nông sản xuất khẩu không đồng đều

Thời gian qua, chất lượng một số mặt hàng nông sản chưa ổn định, trong khi yêu cầu của các nước nhập khẩu ngày càng cao, nhất là yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Vẫn còn nhiều đơn hàng xuất khẩu bị trả về do sử dụng chất cấm trong quá trình sản xuất, gia công. Tỷ lệ sản phẩm sản xuất theo tiêu chuẩn bền vững và chứng nhận quốc tế còn ít, chỉ khoảng 10%.

- Tỷ lệ sản phẩm có thương hiệu thấp

Mặc dù có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu ở vị trí hàng đầu thế giới nhưng hơn 80% chưa xây dựng được thương hiệu, chưa có logo, nhãn mác của Việt Nam. Đây là hạn chế lớn, làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời hạn chế việc tham gia sâu vào hệ thống phân phối bán lẻ của các nước nhập khẩu.

Những hạn chế trên xuất phát từ một số nguyên nhân khách quan và chủ quan:

Nguyên nhân khách quan

Quy mô sản xuất trong nước còn nhỏ, 80% hộ nông dân có diện tích dưới 1 ha. Điều này làm hạn chế việc sản xuất các sản phẩm đồng nhất, chất lượng đồng nhất. Điều này hạn chế việc sản xuất các sản phẩm có chất lượng đồng đều. Sản phẩm xuất khẩu bị cạnh tranh gay gắt trong khi nguồn lực hỗ trợ cho nông nghiệp hạn chế. Tổng vốn đầu tư cho nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 5,69% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ, các nước ngày càng nâng cao các hàng rào phi thuế quan để bảo vệ thị trường nội địa. Một số nước thường xuyên thay đổi chính sách nhập khẩu gây khó khăn cho nông sản Việt Nam.

nguyên nhân chủ quan

Hệ thống thông tin và phân tích thị trường còn hạn chế, hành lang pháp lý chưa được đầu tư đầy đủ. Hệ thống dịch vụ công chưa đáp ứng yêu cầu (công tác kiểm tra, giám sát, quản lý chất lượng còn hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng hàng hóa xuất khẩu). Công nghiệp hỗ trợ (dịch vụ logistics) còn yếu, nhất là vận tải, kho bãi. Thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong hoạt động thúc đẩy xuất khẩu nông, lâm, thủy sản. Các chính sách trong thời gian qua đã được xây dựng khá đầy đủ nhưng việc hỗ trợ còn hạn chế, chưa đi vào thực tiễn. đặc biệt là thúc đẩy doanh nghiệp liên kết với nông dân xây dựng vùng nguyên liệu, đầu tư chế biến sâu, phát triển thương hiệu sản phẩm.

3. Cơ hội

Hội nhập kinh tế mang lại cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc mở rộng thị trường và xuất khẩu nông sản. Với lợi thế về nông nghiệp và điều kiện tự nhiên, nông sản Việt Nam có những thế mạnh nhất định để cạnh tranh với nông sản quốc tế.

- Nhu cầu nhập khẩu nông sản của thị trường quốc tế tăng

Theo dự báo của OECD-FAO giai đoạn 2019-2028, mức tiêu thụ nông sản của thế giới sẽ tăng bình quân 1,5-3%/năm giai đoạn 2019-2028, trong đó nhu cầu tiêu thụ thịt bình quân và cá tăng 3%, nhu cầu tiêu thụ cá cũng dự báo tăng 2,12%, nhu cầu ngũ cốc tăng gần 2%, nhu cầu nội thất sử dụng chất liệu tre, nứa tăng, dự báo tăng trưởng giai đoạn 2019 - 2028 là 10,6%.

Nông sản Việt Nam xuất khẩu sang hơn 180 thị trường trên thế giới đã tạo được tiếng vang, nhất là các thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc. Với nhiều lợi thế trong sản xuất nông sản, trái cây nhiệt đới đặc trưng của khí hậu nước ta và tiêu chuẩn kỹ thuật cao, nông sản Việt Nam đã chinh phục được những thị trường khó tính như EU, với trữ lượng lớn có thể cung ứng cho những thị trường yêu cầu cao như Trung Quốc. Nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam giữ vị trí hàng đầu về xuất khẩu thế giới như cà phê, gạo, chè, hạt điều…

- Lợi thế về sản xuất

Là một quốc gia nằm trong chí tuyến, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển và sản xuất nông nghiệp. Với tốc độ tăng trưởng bình quân 3,5%/năm, thuộc mức cao ở châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng, sau thời gian dài thiếu lương thực vào năm 1989, Việt Nam đã từng bước trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Giai đoạn 2008-2017, tốc độ tăng trưởng GDP của ngành nông nghiệp Việt Nam đạt bình quân 2,66%/năm, năm 2018 là 3,76% và 2,2% vào năm 2019 và 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid nhưng tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp Việt Nam khu vực vẫn đạt 2,65%.

Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế phù hợp với thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển theo tiêu chuẩn VietGAP với trên 62% số xã đạt chuẩn nông thôn mới.

- Xuất khẩu nhanh chóng, linh hoạt

Với quy mô đầu tư vào nông nghiệp của các doanh nghiệp ngày càng tăng như hiện nay, tập trung vào điều hành các khâu từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ nông sản, bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng đẩy mạnh, nhanh nhẹn, linh hoạt trong xúc tiến thương mại, mở ra nhiều thị trường xuất khẩu mới như một số vải thiều sang Nhật Bản, bưởi sang Chile, chanh dây sang châu Âu... ngay khi nhận thấy sự sụt giảm xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.

- Cơ hội từ các hiệp định thương mại thế hệ mới FTA (CPTPP, EVFTA)

CPTPP và EVFTA là hai hiệp định thương mại thế hệ mới, tham vọng lớn cam kết hầu hết các dòng thuế về 0%, đồng thời quy định nhiều nội dung mới chưa từng được đề cập trong đàm phán các FTA truyền thống . Hiệp định CPTPP và EVFTA sẽ tác động tích cực đến hoạt động thương mại và xuất khẩu thông qua việc thúc đẩy dòng chảy thương mại, đầu tư và chuyển giao công nghệ.

Ngay trong tháng đầu tiên EVFTA có hiệu lực, nông sản Việt Nam xuất khẩu sang EU đã tăng 15-17% so với cùng kỳ năm 2019. Hiệp định CPTPP cũng góp phần đưa xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng mạnh hơn. Theo Bộ Công Thương, trong nửa đầu năm 2020, xuất khẩu sang thị trường các nước thành viên CPTPP có mức tăng trưởng khả quan như: xuất khẩu sang Australia tăng 2,3%; Chi-lê tăng 1,6%; Mexico tăng 2,6%... Tuy là mức tăng trưởng không quá cao nhưng nếu đặt trong bối cảnh dịch Covid-19 bị ảnh hưởng lớn khiến kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh thì kết quả này tương đối lạc quan. Trước đó, trong năm 2019, mặc dù Hiệp định mới có hiệu lực chưa đầy một năm nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước trong thị trường CPTPP đã có mức tăng trưởng khá,

- Phát triển khoa học công nghệ, công nghệ 4.0

Sự phát triển của khoa học công nghệ và làn sóng của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 cũng tạo ra nhiều cơ hội giúp ngành nông nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường xuất khẩu. Các ứng dụng nổi bật nhất của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 như công nghệ số (AI, Bigdata, Internet of Things IoT, Công nghệ viễn thám…) giúp giảm chi phí, tăng chất lượng và năng suất hiệu quả. Cơ hội đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao.

Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ 4.0 đã thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại trực tuyến. Theo báo cáo của Bộ Công Thương, hoạt động XTTM trực tuyến đã giúp DN XK Việt Nam tiết kiệm chi phí XTTM đồng thời duy trì và phát triển mối quan hệ tốt đẹp với các đối tác nước ngoài khắp 5 châu, huy động toàn bộ hệ thống Tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài góp phần hỗ trợ các địa phương, nông dân tiêu thụ nông sản kịp thời trong điều kiện không thể thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại thực tế ở nước ngoài.

Bộ Công Thương cũng đã trực tiếp tổ chức, hỗ trợ kỹ thuật và phối hợp với các địa phương như Bắc Giang, Sơn La, Phú Thọ, Hưng Yên, Yên Bái, Tuyên Quang, Lâm Đồng, Cà Mau... tổ chức thành công giao thương trực tuyến các hội nghị xúc tiến quảng bá, kết nối tiêu thụ các mặt hàng nông, thủy sản trong vụ như vải, nhãn, xoài, rau củ… Đến nay, mô hình này đã trở thành một hình thức xúc tiến thương mại điện tử mới, hiệu quả và đã lan tỏa đến các địa phương. hầu hết các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp trên cả nước, qua đó đóng góp tích cực vào kết quả xuất - nhập khẩu của cả nước trong thời gian gần đây.

Riêng một số ngành như sản xuất đồ gỗ, việc đẩy mạnh phát triển trên các kênh trực tuyến như Alibaba.com được xem là bước ngoặt đưa nông sản Việt đến với nhiều khách hàng quốc tế hơn. Kết quả là nhóm hàng đồ gỗ đã tăng tốc trong những tháng cuối năm 2020 với kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 12,6 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm 2019; Giá trị lâm sản đạt trên 10 tỷ USD, cao nhất từ ​​trước đến nay và tiếp tục nằm trong top 10 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.

4. Thử thách

- Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường trong và ngoài nước

Việt Nam đã ký kết tham gia 13 Hiệp định thương mại tự do (FTA), 3 Hiệp định đang đàm phán là cơ hội thuận lợi cho xuất khẩu, nhưng cũng đứng trước thách thức lớn về cạnh tranh cả trên thị trường xuất khẩu và thị trường trong nước. Nhiều mặt hàng có lợi thế cạnh tranh thấp như mía đường, sản phẩm chăn nuôi, nguyên liệu thức ăn chăn nuôi... sẽ chịu sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại nhập.

- Nhu cầu của thị trường thay đổi và yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng ngày càng cao

Nhu cầu thị trường đang hướng tới các sản phẩm tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường và có trách nhiệm với xã hội, đòi hỏi các sản phẩm nông, lâm, thủy sản phải được khai thác hợp lý, từ đó đưa ra các tiêu chuẩn tương ứng về nguồn gốc sản phẩm (như thủy sản, rau quả, gỗ). Đây cũng là rào cản thách thức đối với xuất khẩu nông lâm thủy sản Việt Nam khi hệ thống truy xuất nguồn gốc và quản lý khai thác chưa được triển khai bài bản, nhiều doanh nghiệp nông nghiệp mới đang trong quá trình đổi mới để hội nhập với thế giới.

- Sự trở lại của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch

Xung đột chính trị, xung đột lãnh thổ trong khu vực và giữa các nền kinh tế lớn, thay đổi chính sách thương mại, xung đột, xu hướng bảo hộ gia tăng, điển hình là xung đột thương mại Mỹ - Trung. Gia tăng các hàng rào kỹ thuật, các biện pháp phòng vệ thương mại như chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ khẩn cấp... luôn là thách thức đối với xuất khẩu.

- Sự không chắc chắn trong chính sách của nhà nhập khẩu

Những thay đổi trong chính sách nhập khẩu của các nước sẽ ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu nông sản. Trong thời gian qua, đã có nhiều vụ kiện chống bán phá giá của Hoa Kỳ đối với các sản phẩm tôm và cá tra của Việt Nam. Hay việc EU áp dụng “thẻ vàng” đối với thủy sản Việt Nam nhập khẩu vào EU; Đạo luật Farmbill của Hoa Kỳ (Luật Nông trại Hoa Kỳ); sự thay đổi trong chính sách quản lý biên mậu của Trung Quốc theo hướng tăng cường áp dụng các biện pháp truy xuất nguồn gốc nông lâm thủy sản, siết chặt hạn ngạch nhập khẩu, tạm nhập tái xuất; Các biện pháp kiểm dịch thủy sản NK từ Hàn Quốc, tạm dừng NK thủy sản từ Ả Rập Saudi, một số quy định NK từ Brazil hay chính sách NK thủy sản vào Nga... đang tạo ra những khó khăn cho XK nông sản của Việt Nam.

- Thách thức của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh

Ngành nông nghiệp luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do tác động của thiên tai (biến đổi khí hậu dẫn đến các hình thái thời tiết cực đoan ngày càng nghiêm trọng, mưa đá, xâm nhập mặn), dịch bệnh ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản. Đặc biệt, thời gian gần đây, dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút corona (Covid 19) gây ra đã và đang diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nặng nề đến mọi hoạt động, hoạt động kinh tế - xã hội và tình hình giao thương hàng hóa nông, lâm, thủy sản của Việt Nam với thế giới. thị trường.

https://vioit.org.vn/en/strategy-policy/export-of-key-agricultural-products-of-vietnam--opportunities-and-challenges-in-the-coming-time-4384.4144.html

Trương Thị Quỳnh Vân

Phòng Thông tin Thư viện và Xúc tiến Thương mại - VIOIT

 

Gửi ý kiến của bạn


Liên kết website

Video Clip

Thông tin tiện ích

CÔNG TY TNHH NÔNG NGHIỆP XANH VIỆT NAM Công ty phượng hoàng

Thăm dò ý kiến

Bạn đánh giá như thế nào về hoạt động của Hội Làm vườn Việt Nam
Hoạt động có hiệu quả
Hoạt động không hiệu quả
Không có ý kiến
 
Danh bạ điện thoại Hỏi đáp Văn bản Liên hệ

FaceBook

Thống kê truy cập