Tin tức - Sự kiện

Diễn đàn: “Phát triển sản xuất cây ăn quả đạt tiêu chuẩn phục vụ nội tiêu và xuất khẩu”.

22/07/2025, 09:01

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường Phú Thọ tổ chức diễn đàn tại Phú Thọ.


Tham dự Diễn đàn có đại diện lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Hội Làm vườn Việt Nam, Viện nghiên cứu Rau quả,Viện Bảo vệ thực vật, Viện KHKTNLN miền núi phía Bắc, Sở Nông nghiệp và Môi trường, Trung tâm Khuyến nông ,Chi cục Trồng trọt và BVTV, các doanh nghiệp chế biến,tiêu thụ sản nông sản,  các cơ quan thông tấn, báo  chí của Trung ương, địa phương và  gần 200 đại biểu của các HTX, chủ trang trại nhà vườn trồng cây ăn quả  tiêu biểu của các tỉnh: Lào Cai, Sơn La, Bắc Ninh, Phú Thọ. Hội Làm vườn Việt Nam có Tiến sỹ  Phan Huy Thông – Phó Chủ tịch Thường trực tham gia đồng chủ trì và Tiến sỹ Lê Văn Đức –Phó Ban Khoa học và  chuyển giao Công nghệ tham gia Ban cố vấn Diễn đàn. Sau khi tham quan mô hình HTX  trồng bưởi tại  xã  Đoan Hùng, tình Phú Thọ, nghe một số báo cáo tham luận về các nội dung liên quan đến chủ đề của Diễn đàn, các đai biểu đã tập trung thảo luận và được các chuyên gia ,các nhà khoa học, cán bộ quản lý ngành nông nghiệp giải đáp,tư vấn các vấn đề về  khoa học kỹ thuật nhằm đẩy mạnh ứng dụng KHCN, chú trọng tuân thủ các quy định về thực hành nông nghiệp tốt ( GAP), quản lý  cây trồng tổng hợp (ICM), quản lý sức khoẻ đất trồng (Soil Health), đồng thời tiếp tục thực hiện tốt quy hoạch phát triển các  sản xuất cây ăn quả chủ lực theo hướng liên xã, liên tỉnh và các  cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ hợp tác, liên kết chuỗi  giá trị,  đảm bảo nguyên liệu đạt tiêu chuẩn phục vụ chế biến, tiêu thụ để nâng  cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

Toàn cảnh diễn đàn

Hội làm vườn Việt Nam có bài tham luận tại diễn đàn do ông Phan Huy Thông, Phó chủ tịch thường trực Hội trao đổi tại diễn đàn, Ban biên tập xin đăng tải bài tham luận để mọi người tham khảo

 
PHÁT TRIỂN CHUỖI LIÊN KẾT SẢN XUẤT – TIÊU THỤ CÂY ĂN QUẢ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ VƯỜN VÀ TÍNH BỀN VỮNG CỦA KINH TẾ  VƯỜN
                                                                 
 
I. Mở đầu :
Ở nước ta, kinh tế  vườn (KTV) là một bộ phận rất quan trọng và luôn gắn liền với quá trình phát của kinh tế nông nghiệp (KTNN). Trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung trước đây, khái niệm  “vườn” thường chỉ bó hẹp trong khuôn viên sống của từng hộ gia đình, mục đích chính là sãn xuất  các loại rau, hoa, quả, cây cảnh  đáp ứng 1 phần nhu cầu thực phẩm của hộ theo phương thức ”tự sản tự tiêu “ là chính, đồng thời phục vụ nhu cầu giai trí, thưởng ngoạn văn hoá sinh cảnh. Từ khi thực hiện công cuộc “Đổi mới” và quá trình chuyển đổi cơ cấu sản  xuất trong nông nghiệp, quan niệm về KTV cũng không ngừng mở rộng với các mô hình đa dạng như: vườn Ruộng (VR), vườn Đồi ( VĐ),  vườn Rừng(VR) , Vườn Công nghệ cao ( VCNC), Vườn sinh thái (VST), vườn Đô thị (VĐT)…Có  thể nói, ngoài các đại điền trang sản  xuất tập trung chuyên canh  rau, quả, cây công nghiệp, trồng rừng chuyên canh, chăn nuôi trang trại công nghiệp quy mô rất lớn của các Tổng công ty, Tập  kinh tế lớn trong nông nghiệp, thì các trang trại, gia trại,vườn hộ gia đình sản xuất rau, hoa,quả, cây cảnh, cây dược liệu ….quy mô nhỏ và vừa đều thuộc phạm vi của KTV. KTV ngày  càng có vai trò quan trọng đối với KTNN. Theo  đánh giá sơ bộ của Hội Làm vườn Việt Nam trong năm 2024, khoảng trên 80 diện tích, gần 70 % sản lượng sản xuất và trên 50 % sản lượng xuất khẩu rau, quả, cây  công nghiệp,  hoa, cây cảnh …có nguồn  gốc từ KTV. KTV cũng tạo điều kiện chuyển  đổi cơ  cấu sản xuất nông lâm nghiệp, khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tạo việc làm tại chỗ, tăng thu nhập cho chục triệu lao động nông thôn, góp phần xoá  đói, giảm nghèo và làm giàu, cải tạo cảnh quan ,môi  trường,xây dựng nông thôn mới xanh – sạch- đẹp và phát triển bền vững.
             KTV rất đa dạng, phong phú về cơ cấu,chủng loại sản phẩm, phù hợp với điều kiện  tự nhên, tập quán canh tác của từng vùng và nhu cầu của thị  trường theo từng giai đoạn. Tuy nhiên, cây ăn  quả ( CAQ)  luôn ngành hàng chủ lực, chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong  KTV, kể cả về quy mô, cơ cấu và giá trị sản xuất, xuất khẩu. Năm 2024,  diện tích sản xuất CAQ cả nước đạt khoảng 1,3 triệu ha (trong đó diện tích từ khu vực KTV chiếm khoảng trên 80%), sản lượng khoảng 12,3 triệu tấn, giá trị xuất khẩu rau quả đạt 7,1 tỷ USD. Hầu hết các loại cây ăn quả thuộc Đề án phát triển Cây ăn chủ lực đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2030 của Bộ Nông nghiệp và  PTNT ( nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trương) đều được phát triển ở khu vực KTV. Bởi vậy, việc phát huy lợi thế của từng địa phương để  phát triển các sản phẩm cây ăn quả có năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh kể cả thị trường trong nước và xuất khẩu là góp phần nâng cao hiệu quả và tính bền vững của KTV nói riêng và  kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung.
II. Một số kết quả nổi bật về phát triển cây ăn quả gắn với Kinh tế vườn.
1. KTV thường xuyên bám sát và đồng hành cùng các Chương trình kinh tế trọng điểm của ngành  nông nghiệp và PTNT
  Trong  quá trình thực hiện công cuộc Đổi mới của đất nước nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng, nghề làm vườn luôn bám sát và tích cực triển khai rất hiệu quả các  chương trình kinh tế trọng điểm trong nông nghiệp, nông thôn. Từ chỗ chủ yếu sản xuất  tự cấp tự túc để cải thiện dinh dưỡng của người dân, dần dần mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng về cơ cấu, nâng cao chất lượng sản phẩm và  thu nhập theo hướng hàng hoá để  hình thành một lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp nước ta như hiện nay.
- Từ  cuối thập niên 80 của Thế kỷ trước, khi Đất nước bắt đầu thực hiện công cuộc “ Đổi mới”,  kinh tế nông hộ được cởi trói và khuyến khích phát triển  đã  tạo động lực  mạnh mẽ khơi dậy, huy động tài nguyên đất đai, lao động và tinh thần sáng tạo của nông dân để phát triển sản xuất, cải thiện  đời sống.
 Hội Làm vườn Việt Nam được thành lập năm 1986, thực hiện chủ trương  của Đảng, Nhà nước và ngành Nông nghiệp, Hội đã phát động phong trào “ Cải tạo vườn tạp, khai hoang đất trống đồi  núi trọc để phát triển vườn, trang trại VAC hàng hoá ”. Phong trào    đã được các địa phương hưởng ứng, triển khai rất tích cực, liên tục qua nhiều năm và đạt kết quả rất quan trọng. Trên khắp cả nước,  từ Bắc tới Nam, từ trung du, miền núi đến đồng bằng, ven biển,  hàng triệu hộ nông dân và hội viên  Hội Làm  vườn các cấp đã thực hiện cải tạo hàng vạn ha đất vườn tạp, đất đồi,  bãi bồi ven sông, ven biển hoang hoá để phát triển các vườn kinh tế, gia trại, trang trại trồng cây ăn quả, cây lâm nghiệp xen các cây lương thực, thực phẩm và kết hợp chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ  sản (theo các mô hình VAC, VA,VACR nông lâm kết hợp), tạo sản phẩm  hàng hoá, tăng thu nhập, góp phần quan trọng xoá đói, giảm nghèo, phủ xanh đất trống,đồi núi trọc,  cải thiện môi trường  sinh thái. Ở miền Bắc, rất nhiều địa phương như Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Giang, Phú Thọ, Hoà Bình, Hà Tây (cũ), Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng,Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế …có các mô hình tiêu  biểu về cải tạo vườn tạp, đất hoang hoá để trồng cây ăn quả, cây lâm nghiệp hoa, cây cảnh, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ cầm, thuỷ sản  … đem lại thu nhập hàng trăm triệu đồng/ ha


- Từ giữa thập niên 2010, thực hiện chủ trương tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững và Kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây lâu năm kết hợp nuôi trồng thuỷ sản, hệ thống Hội Làm vườn các cấp đã tích cực triển khai phong trào “Đổi mới cơ cấu sản xuất, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế VAC”,  đã  vận động, hướng dẫn, giúp đỡ hàng trăm ngàn hội viên và nông dân mạnh dạn chuyển đổi hàng trăm ngàn ha đất ruộng trũng, chua, mặn, đất đồi núi dốc trồng cây lương thực kém hiệu quả  sang trồng cây ăn quả kết hợp chăn nuôi, thuỷ sản đạt hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần so với trồng cây lương thực.
 Điển hình ở khu vực miền núi phía Bắc là tỉnh Sơn La, trong 10 năm ( 2016- 2025) thực hiện Chương trình phát triển Cây ăn quả trên đất dốc đã chuyển đổi trên 62 ngàn ha đất trồng ngô, lúa nương hiệu thấp sang trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, đến năm 2025 diện tích cây ăn quả của tỉnh đạt 85.050 ha, tăng gần 2,2 về diện tích và 3,32 lần về sản lượng so với năm 2015, trở thành vùng cây ăn quả có diện tích lớn nhất miền Bắc và đứng thứ 2 cả nước, với các loại cây chủ lực như : Chuối, Nhãn, Xoài, Mận, Na, Thanh long, Chanh leo, Bơ, Cam quýt…Nhiều sản phẩm quả tươi và chế biến đã được xuất khẩu sang các thị trường cao cấp với giá trị sản xuất khẩu đật trên 30 triệu USD/năm. Giá trị sản xuất cây ăn quả trung bình đạt 150-300 triệu đồng/ha/năm, một số mô hình tiêu biểu đạt 400 -500 triệu đồng/ha/năm, gấp 4-10 lần so với trồng ngô, lúa nương.
Các tỉnh khác trong Vùng như:  Bắc Giang, Tuyên Quang, Hoà Bình, Phú Thọ, Thái Nguyên…cũng thực hiện chuyển đổi  thành công hàng chục ngàn ha đất trũng hoặc đất trồng rừng hiệu quả  thấp sang trồng cây ăn quả, cây công nghiệp (chè)  kết hợp chăn nuôi, thuỷ sản đạt hiệu quả cao, góp phần chuyển đổi cơ cấu sản xuất và nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai.  
 Ở các tỉnh đồng bằng, ven biển như Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Thái Bình, Hà Nội… cũng chuyển đổi thành công hàng chục ngàn ha đất lúa trũng, chua mặn sang trồng cây ăn quả  kết hợp chăn nuôi gia cầm, thuỷ cầm,  thuỷ sản đạt giá trị thu nhập hàng trăm triệu đồng/ha, thậm chí các mô hình chuyển sang trồng hoa,cây cảnh công nghệ cao đạt giá trị trên 1 tỷ đồng/ ha, cao hơn trồng lúa từ 3- 10 lần.
- Từ năm 2020 đến nay, căn  cứ vào Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 của Chính phủ, lĩnh vực KTV và ngành hàng cây ăn quả nói riêng tiếp tục phát triển cả về quy mô  và chất lượng, chuyển từ mô hình “sản xuất nông nghiệp “sang mô hình “kinh tế nông nghiệp” theo hướng khai thác, phát huy tiềm năng, lợi thế tự nhiên nhu cầu thị trường để phát  triển sản phẩm hàng hoá đáp ứng về tiêu chuẩn chất lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc.
Đồng thời, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM, các mô hình “vườn mẫu’, “vườn chuẩn “, “trang trại kiểu mẫu “ đã và đang nhân rộng, vừa nâng cao hiệu quả của KTV, vừa góp phần  cải tạo cảnh quan môi trường nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu theo hướng văn minh, xanh –sạch – đẹp.  
2. KTV luôn chú trọng áp dụng các kỹ thuật, công nghệ tiến bộ vào chuỗi giá trị sản xuất, tạo động  lực tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất.
a/ Về giống: nhận thức rõ vai trò quan trọng của giống  trong sản xuất cây lâu năm nói chung và cây ăn quả nói riêng, các  tổ chức Hội thường xuyên hợp tác, phối hợp với các cơ quan nghiên cứu khoa học, các đơn vị sản xuất giống có uy tín để giới  thiệu, hướng dẫn hội viên, các nhà  vườn  tiếp cận các loại giống cây ăn quả đảm   bảo chất lượng, thích ứng  với điều kiện tự nhiên của từng vùng và nhu cầu của thị trường tiêu thụ quả tươi và công nghiệp chế biến. Chương trình giống Quốc gia được triển khai từ đầu thập niên 2000 đến nay, đã tạo điều kiện đẩy mạnh nghiên cứu tuyển  chọn, phục tráng nhiều giống cây ăn quả quý trong nước, đồng thời nhập nội, thuần hoá và phát triển thành công nhiều giống cây ăn quả có năng suất,chất lượng cao từ các nước có nền nông nghiệp tiên tiến trên thế giới. Đến nay, bộ giống các loại cây ăn  quả chủ lực khá phong phú, đáp ứng cơ cấu phát triển nghề vườn ở các tiểu vùng sinh thái và các mùa vụ thu hoạch khác nhau, từ chín sớm, chính vụ và chín muộn. Nhiều giống cây trồng có năng suất,chất lượng vượt trội, được phát triển rộng ở nhiều vùng, đáp ứng cả nhu cầu  ăn tươi và chế biến phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu sang các thị trường từ cấp thấp đến cấp cao. Nhiều địa phương đã phục tráng và phát triển các giống cây ăn quả đặc sản có giá trị kinh tế cao  như các giống Nhãn Lồng ( Hưng Yên), Vải Thanh Hà (Hải Dương), Vải Thiều (Lục Ngạn –Bắc Giang), xoài Cát Hoà Lộc ( Đồng Tháp), Bưởi Diễn, Cam Đường Canh ( Hà Nội), Bưởi Đoan Hùng ( Phú Thọ), Bưởi Soi Hà ( Tuyên Quang), Bưởi Phúc Trạch ( Hà Tĩnh), Na Chi Lăng ( Lạng Sơn), Mận  Hậu ( Sơn La, Lào Cai)… Công nghệ nhân giống vô tính cũng tiến bộ vượt bậc với các kỹ thuật ghép mắt, vi ghép  đỉnh sinh trưởng ( đối với cây có múi).  , nhân giống cấy mô tế bào… vừa  duy trì được đặc tính tốt của cây mẹ, đảm bảo chất lượng cây giống đồng đều,  tăng nhanh tỷ lệ nhân giống, hạ giá thành cây giống và rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản so với nhân giống hữu tính. Đặc biệt, trong những năm gần đây, kỹ thuật ghép cải tạo giống mới trên gốc cây ăn quả lâu năm đang được áp  dụng rộng rãi trên nhiều loại cây như : nhãn, vải, xoài, cam, bưởi, na …vừa tạo điều kiện thay đổi cơ cấu giống ( nhất là các giống có khả năng rải vụ thu hoạch, làm trẻ  hoá vườn cây lâu năm, giảm chi phí trồng mới  và rút ngắn thời gian kiến thiết cơ bản, tăng hiệu quả kinh tế rõ rệt.
- Về kỹ thuật canh tác : kỹ thuật canh tác bền vững theo cách tiếp cận quản lý cây trồng tổng hợp ( ICM) thông qua các “ gói” kỹ thuật đồng  bộ : chọn giống khoẻ, bón phân cân đối và hợp lý trong đó tăng cường sử dụng phân hữu cơ, tưới nước tiết kiệm, quản lý dịch hại tổng hợp, tỉa cành tạo tán cân đối, điều tiết rải vụ … bền vững đang ngày càng áp dụng rộng rãi. Đặc biệt những năm gần đây vấn đề quản lý sức khoẻ đất trồng ( Soil Helth), trong đó đảm cân bằng và tối ưu hoá các yếu tố vật lý – hoá học -  sinh học của đất trồng  đang được khuyến cáo áp dụng trong thực tiễn, nhất là  đối với các loại đất dốc, đất đang hoặc có nguy cơ bị thoái hoá.
Việc ứng dụng kỹ thuật canh tác hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn, các tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt ( GAP)… cũng đang từng  bước mở rộng trong lĩnh vực KTV với nhiều đối tượng cây trồng và quy mô khác nhau. Tại các địa phương ngày càng nhiều trang trại, HTX sản xuất rau, quả tích cực sử  các  chế các phụ phế phẩm trồng trọt, chăn nuôi và chế phẩm sinh học để nuôi giun quế hoặc chế biến thành phân bón hữu cơ, hữu cơ vi sinh tái bón cho cây trồng. Nhiều trang trại, nhà vườn sử dụng biện pháp quản lý sâu bệnh, cỏ dại bằng biện pháp thủ công kết hợp biện pháp sinh học thay thế biện pháp hoá học rất hiệu quả. Kỹ thuật bao trái cũng được áp rộng rãi trong sản xuất, vừa hạn chế sâu bệnh hại,vừa đảm bảo mẫu mã và  tính an toàn của sản phẩm quả.


Các đại biểu tham quan vườn bưởi tại xã Đoan Hùng, Phú Thọ
- Về  thu hoạch, sơ chế, bảo quản, chế biến sản phẩm: Các tiến bộ kỹ thuật,công nghệ trong và sau thu hoạch cây ăn quả cũng được các HTX, trang trại, nhà vườn quan tâm tìm hiểu,ứng dụng có hiệu quả, kể cả các  loại trái cây  ăn tươi, chế biến phục vụ nội tiêu và xuất khẩu. Từ các kỹ thuật sơ chế, bảo quản  đơn giản như: phân loại quả,vệ  sinh bề ngoài, bọc màng giữ ẩm, chống dập… đến các  công nghệ   tiên tiến như : dùng màng  phủ nano, màng bọc sinh học, chiếu xạ bằng tia UV, xử lý bằng hơi nước nóng, bảo quản mát, hút chân không … đảm  bảo giữ được chất lượng quả tự nhiên trong thời gian dài,nhất là đối với các sản phẩm xuất khẩu sang khác thị trường cao cấp. Kỹ thuật  bao, gói cũng có nhiều tiến bộ: hình thức đóng gói đa dạng, sử dụng các vật liệu thân thiện với môi trường. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư công nghệ chế biến quả hiện đại, sản phẩm chế biến sâu đạt giá trị gia tăng cao, đáp ứng tiêu chuẩn của các thị trường  nhập khẩu cấp cao.
3. Kinh tế vườn đẩy mạnh hợp tác, liên kết chuỗi và nông nghiệp tích hợp đa giá trị
Trong những năm qua, cùng với mở rộng quy mô và đổi mới cơ cấu sản xuất, tăng cường ứng dụng KHCN  để nâng  cao năng suất,chất lượng  sản phẩm, KTV nói chung và ngành cây ăn quả nói riêng  đã từng bước  đổi mới các mô hình tổ chức sản xuất, từ Nhóm  hộ, Tổ hợp tác (THT),  HTX  sản  xuất, dịch vụ  đến liên kết với các doanh nghiệp hình  thành chuỗi giá trị từ sản xuất – chế biến – tiêu thụ, hình  thành các  “ngành hàng” thực sự hiệu quả, bền vững. Đồng thời kết hợp các hoạt  động nông nghiệp  và phi nông nghiệp để khai thác tốt hơn  tiềm năng, nâng  cao giá trị gia  tăng của  KTV. Rất nhiều mô hình KTV tiêu biểu cho xu hướng này đang được phát triển và lan toả trong thực tiễn.
Điển hình như tại Sơn La, cùng với  việc chú trọng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mở rộng diện tích để hình thành các vùng sản xuất cây ăn quả tập trung quy mô lớn, tỉnh đã hỗ trợ mạnh mẽ để phát triển các HTX chuyên sản xuất rau, hoa quả, thực hiện sản xuất 1 số sản phẩm chủ lực theo các quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật thống nhất để hình thành các vùng nguyên liệu tập trung có quy mô đủ lớn , đồng   thời chính sách phù hợp để thu hút các doanh nghiệp đến đầu tư cơ sở thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm để nâng cao giá trị cho các đối tác trong cả chuỗi ngành hàng.  Các địa phương khác như Bắc Giang, Hoà  Bình,Tuyên Quang, Quảng Ninh… cũng  đang hình thành các Tổ hợp tác, HTX,Liên minh  HTX hoạt động trong lĩnh vực KTV, liên kết  chặt chẽ với các doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nghề vườn theo thế mạnh của từng địa phương, vùng miền (sản phẩm OCOP) đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế đạt hiệu quả cao. Các mô hình  KTV tích hợp đa giá trị như du lịch vườn sinh thái, trang trại thực hành, trải nghiệm nghề nông, các phiên chợ nông sản, Lễ hội Cam, Festival chè …  tại Hà Nội, Hoà Bình, Thái Nguyên, Quảng Ninh đang lan toả…..góp phần đa dạng hoá thu nhập, nâng cao hiệu quả KTV.
Các mô hình Vườn Công nghệ cao, Vườn Hữu cơ, Trang trại nông nghiệp tuần hoàn, Trang trại ứng dụng nông nghệ số… cũng được phát triển ở nhiều nơi với các quy mô, cấp độ khác nhau, vừa nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đảm bảo truy xuất nguồn gốc, tiết  kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái bền vững.
III. Phương hướng phát triển KTV trong thời gian tới
Trong  những năm tới, khi đất nước bước vào kỷ nguyên “ vươn mình”, để góp phần thực hiện thắng lợi  Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững, lĩnh vực  KTV sẽ tập trung phát triển theo  chiều sâu  để nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của  sản phẩm. Định hướng chung là ổn định quy mô diện tích toàn ngành, từng  địa phương, nhà vườn  rà  soát,  đánh giá điểm mạnh và hạn chế của từng loại sản phẩm cũng như chuỗi giá trị ngành hàng. Đối những sản phẩm phát triển “ nóng” trong thời gian qua nhưng thị trường không ổn định, khuyến cáo  người dân không mở rộng diện tích ở những nơi điêu kiện đất đai,khí hậu không phù hợp. Tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng KHCN, chuyển đổi số trong tất cả các khâu từ sản xuất đến thu hoạch, sơ chế , bảo quản, chế biến  và thương mại để nâng cao  chất lượng, tính minh bạch  và  khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Mở rộng các mô  vườn, trang trại tuần hoàn, hữu cơ, vườn công nghệ cao,  vườn sinh thái kết hợp du lịch. Tiếp tục phát triển các mô hình hợp tác theo các cấp độ khác nhau  để hình thành các vùng sản xuất  hàng hoá tập trung, thống nhất về quy trình sản xuất và đồng nhất về chất lượng sản phẩm, tạo vùng nguyên liệu ổn định làm cơ sở  nền tảng thu hút, liên kết với các doanh nghiệp đầu tư chế biến,tiêu thụ. Phát triển, nâng cấp các sản phẩm OCOP trong lĩnh vực KTV.Nhân rộng các mô hình “Vườn mẫu, trang trại kiểu mẫu “  gắn với xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu./.

Nguồn: /BBT HLV VN