Chính sách mới/Tin nghề vườn

Gỡ nút thắt về giống, tạo cú hich công nghệ cho trái cây chủ lực

18/07/2025, 14:22

Thứ trưởng Trần Thanh Nam kêu gọi các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng chung tay, đồng hành trong hành trình đưa các trái cây chủ lực cán đích mục tiêu 'tỷ đô'.


 

Tại Diễn đàn “Giải pháp tăng sức cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm trái cây chủ lực” sáng 18/7, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam nhấn mạnh, với tổng diện tích khoảng 420.000 ha, sản lượng đạt 6,3 triệu tấn mỗi năm, nhóm cây ăn quả gồm chuối, dứa, dừa và chanh leo đang nắm trong tay dư địa rất lớn để bứt phá.
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến nay Việt Nam có 1,3 triệu ha diện tích trồng cây ăn quả; tổng sản lượng hàng năm ước đạt 15 triệu tấn.
Cả nước có hơn 50 loại cây ăn quả phân bố rộng khắp các vùng miền. Tuy nhiên, dù quy mô sản xuất ngày càng tăng nhưng đến nay mới chỉ có mặt hàng sầu riêng vượt hẳn lên và hiện là mặt hàng trái cây duy nhất trong nhóm hàng xuất khẩu “tỷ đô” khi đạt kim ngạch xuất khẩu gần 2,3 tỷ USD năm 2023 và 3,3 tỷ USD năm 2024. Mặt hàng thanh long từng đạt giá trị xuất khẩu hơn 1 tỷ USD, nhưng những năm gần đây đã liên tục giảm và chỉ còn đạt 534 triệu USD năm 2024.
Với tiềm năng, lợi thế và truyền thống của một quốc gia nông nghiệp, con số đó khiến toàn ngành và các doanh nghiệp, hiệp hội phải suy nghĩ, tiếp tục tìm giải pháp bứt phá cho xuất khẩu trái cây.
Đặc biệt, trong bối cảnh 6 tháng đầu năm, khi mặt hàng sầu riêng xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, giảm tăng trưởng so với cùng kỳ, dẫn tới xuất khẩu rau quả bị giảm sau 2 năm liên tục tăng trưởng cao, lại càng thôi thúc ngành hàng rau quả Việt Nam cần phải định vị lại lợi thế cạnh tranh của các nhóm mặt hàng, nhất là các mặt hàng có nhiều lợi thế, đang trên đà tăng trưởng, tiệm cận đạt và vượt cột mốc tỷ đô la Mỹ như: chuối, dứa, dừa và chanh dây.
Về chuối, tính đến tháng 6 năm 2025 Việt Nam có khoảng 161,1 nghìn ha diện tích trồng chuối với năng suất bình quân vào khoảng 207 tạ/ha. Giá trị xuất khẩu chuối của Việt Nam năm 2024 đạt 380 triệu USD, tương đương 2,5% tổng giá trị thương mại ngành chuối toàn cầu (15,3 tỷ USD). Hiện Việt Nam đứng thứ chín trong danh sách các quốc gia xuất khẩu chuối trên thế giới, xếp thứ tư trong số các quốc gia xuất khẩu chuối có tốc độ tăng trưởng lớn nhất trên thế giới sau Ấn Độ, Columbia và Mexico. Các sản phẩm từ chuối của Việt Nam hiện đã xuất khẩu đến các thị trường: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, Canada, Nga, EU và Hoa Kỳ…
Về dứa hiện cả nước có hơn 52,5 nghìn ha. Dự kiến, sản lượng dứa của Việt Nam sẽ đạt 807.000 tấn vào năm 2026. Con số này tăng so với mức 726.000 tấn vào năm 2021, tốc độ tăng trưởng trung bình 1,8% mỗi năm. Các sản phẩm từ dứa của Việt Nam đã xuất sang các nước Châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Australia… Theo dự báo, thị trường dứa toàn cầu có thể đạt 36,8 tỷ USD vào năm 2028.
Về dừa, Việt Nam hiện có hơn 202 nghìn ha diện tích trồng dừa, sản lượng thu hoạch hàng năm hơn 2,28 triệu tấn. Việt Nam đứng thứ 4 về xuất khẩu dừa tại châu Á - Thái Bình Dương và thứ 5 thế giới. Năm 2024, dừa và các sản phẩm từ dừa xuất khẩu đạt gần 1,1 tỷ USD (trong đó, dừa tươi đạt 391 triệu USD). Ngoài Trung Quốc, dừa Việt Nam đã xuất khẩu sang các thị trường EU, Hoa Kỳ, Canada, Hàn Quốc… và liên tục được mở rộng thị trường.
Về chanh dây, hiện cả nước có hơn 12 nghìn ha, sản lượng hàng năm hơn 200 nghìn tấn. Việt Nam hiện nằm trong top 10 các quốc gia sản xuất và xuất khẩu chanh dây lớn trên thế giới, chỉ đứng sau Brazil, Colombia, Ecuador và Peru. Khoảng 70 - 80% sản lượng chanh dây tươi và chế biến của nước ta được xuất khẩu đến hơn 20 quốc gia và vùng lãnh thổ. Năm 2024, xuất khẩu chanh dây đạt 172 triệu USD. Trong 5 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu các sản phẩm chanh dây đã thu về 89,5 triệu USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ.
Trong tổng thể Đề án phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2030, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã định hướng phát triển chuối, dứa, dừa và chanh dây.
Cụ thể, với cây chuối, ổn định diện tích 165 -175 nghìn ha, tập trung vùng có điều kiện sinh thái thuận lợi. Phát triển vùng nguyên liệu lớn đạt tiêu chuẩn VietGAP, hình thành chuỗi liên kết từ nông dân - HTX - doanh nghiệp - nhà máy. Đẩy mạnh chế biến sâu: chuối sấy, bột chuối, đồ uống, đông lạnh... Nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã và kiểm soát chặt chẽ quy trình sản xuất nhằm đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu. Xây dựng thương hiệu quốc gia và vùng đặc sản, xuất khẩu chính ngạch sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, EU.
Với cây dứa, duy trì 55- 60 nghìn ha, nâng cao năng suất, ổn định nguyên liệu cho các nhà máy chế biến. Chuyển đổi sang trồng rải vụ, thu hoạch trái mùa phục vụ cả thị trường tươi và chế biến. Đầu tư chế biến sâu: dứa đóng hộp, nước ép, mứt dứa, sản phẩm lên men. Đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, đặc biệt tận dụng EVFTA để giảm thuế nhập khẩu.
Với chanh dây, phát triển diện tích lên 12-15 nghìn ha, sản lượng 250 - 300 nghìn tấn. Ưu tiên nghiên cứu giống chanh dây kháng bệnh, chất lượng cao. Mở rộng thị trường sang Mỹ, Hàn Quốc, Thái Lan...
Với Dừa, ổn định 195-210 nghìn ha, tập trung tại ĐBSCL và Nam Trung Bộ. Khuyến khích trồng xen (ca cao, cây ăn quả...), nuôi xen (thủy sản, gia cầm) trong vườn dừa để tăng giá trị canh tác. Phát triển các sản phẩm chế biến sâu từ dừa: nước dừa đóng lon, dầu dừa tinh luyện, cơm dừa sấy, mỹ phẩm từ dừa… Kết hợp phát triển du lịch sinh thái vùng dừa gắn với sản phẩm OCOP và làng nghề. Dừa và các sản phẩm từ dừa xuất khẩu sang các thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU, Nhật, Hàn Quốc, Canada,...
Tuy nhiên, 4 mặt hàng này cần một cách tiếp cận mới mẻ, bài bản và quyết liệt hơn, đặc biệt là về giống và công nghệ.

Thứ trưởng Trần Thanh Nam: 'Giống là khâu then chốt trong việc đẩy mạnh sản xuất trái cây chủ lực'. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Thứ trưởng Trần Thanh Nam: 'Giống là khâu then chốt trong việc đẩy mạnh sản xuất trái cây chủ lực'. Ảnh: Nguyễn Thủy.

Đến thời điểm hiện tại, chỉ mới ngành hàng dừa cán mốc kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD mỗi năm, chủ yếu nhờ đẩy mạnh chế biến sâu và đa dạng hóa sản phẩm. 3 mặt hàng còn lại, gồm chuối, dứa, chanh leo, dù có sản lượng lớn, vùng trồng rộng, nhưng vẫn chưa đạt được vị thế tương xứng.

“Chúng ta cần phấn đấu để cả 4 mặt hàng này đều trở thành nhóm nông sản xuất khẩu 'tỷ đô' trong tương lai gần”, Thứ trưởng chia sẻ. 

Theo lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, điều kiện đủ để tạo nên cuộc bứt phá không nằm ngoài một cuộc cách mạng công nghệ đồng bộ, từ giống, vùng trồng, canh tác, truy xuất, đến logistics. Nếu các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp đồng thuận, Bộ sẵn sàng vào cuộc để chung tay hiện thực hóa giấc mơ này.

Để có thể tăng tốc và tạo bước chuyển rõ nét thời gian tới, Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho rằng cần nhận rõ các “nút thắt”. Trong đó, giống vẫn là khâu nền tảng nhưng lâu nay chưa được quan tâm đúng mức. Với nhiều doanh nghiệp, việc thương mại hóa giống vẫn là hành trình gian nan vì các rào cản chính sách.

Tuy nhiên, trở ngại này cơ bản đã được tháo gỡ nhờ sự ra đời của Nghị định 88/2025/NĐ-CP của Chính phủ - văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 193 của Quốc hội, cho phép thí điểm các cơ chế đặc biệt nhằm thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

“Đây là cơ hội để các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư nghiên cứu, sản xuất giống, từng bước làm chủ nguồn gen và nâng chất cây trồng”, ông Nam nhấn mạnh.

Bên cạnh giống, vùng nguyên liệu cũng là mảnh ghép then chốt quyết định tính cạnh tranh. Nhiều HTX vẫn hoạt động rời rạc, thiếu sự liên kết giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ. Tình trạng gom hàng từ nhiều nguồn khiến việc truy xuất nguồn gốc gặp khó, ảnh hưởng tới uy tín xuất khẩu.

Thứ trưởng cho rằng, cần phát triển các vùng nguyên liệu chuẩn, đi kèm hệ thống mã vùng, quy trình canh tác đồng nhất, đồng thời tăng cường liên kết với hợp tác xã ở cả đầu vào (giống, vật tư), lẫn đầu ra (tiêu thụ, chế biến).
Sản xuất cây giống chanh leo tại Công ty Nafoods. Ảnh: Tùng Đinh.

Sản xuất cây giống chanh leo tại Công ty Nafoods. Ảnh: Tùng Đinh.

Một thực trạng khác cũng được Thứ trưởng lưu ý là tình trạng “lật kèo” trong hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, ông phân tích: “Phải phân biệt rõ giữa hợp đồng mua bán đơn thuần và hợp đồng liên kết sản xuất theo chuỗi. Những hợp đồng chuỗi được xây dựng trên cơ sở lợi ích bền vững và cam kết dài hạn, cho đến nay chưa có trường hợp nào bị hủy ngang”.

Trong bối cảnh chuyển đổi mô hình quản lý sang chính quyền hai cấp và phân cấp mạnh cho địa phương, Thứ trưởng nhấn mạnh vai trò trung gian chính sách của Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ ngày càng rõ nét.

Dù vậy, để thiết kế chính sách sát thực tiễn, cần sự đồng hành của hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp tiên phong. “Không ai hiểu đặc thù sản xuất, thị trường và chuỗi giá trị của ngành bằng chính người trong cuộc. Vai trò phản biện, đề xuất, kiến tạo từ hiệp hội là rất cần thiết”, ông bày tỏ.

Về định hướng dài hạn, Thứ trưởng Trần Thanh Nam khuyến khích các ngành hàng học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng chuỗi giá trị và phát triển hạ tầng logistics, đặc biệt từ những nước có điều kiện sản xuất tương đồng.. Hệ thống kho lạnh, trung tâm đóng gói, chế biến hậu thu hoạch... cần được nâng cấp để đáp ứng tiêu chuẩn ngày càng khắt khe từ thị trường quốc tế.

Thứ trưởng kết luận, muốn đạt mục tiêu “tỷ đô”, các ngành hàng cần coi giống và công nghệ là trụ cột, lấy vùng nguyên liệu chuẩn làm nền móng. Đồng thời, huy động sức mạnh của cả hệ sinh thái, từ nông dân, HTX, doanh nghiệp, đến hiệp hội.

“Nếu đồng lòng, chúng ta hoàn toàn có thể làm nên cuộc cách mạng thực sự cho trái cây Việt Nam”, Thứ trưởng Trần Thanh Nam kết luận.

Với tổng diện tích hơn 420.000 ha và sản lượng vượt 6,3 triệu tấn mỗi năm, nhóm trái cây chanh dây, dứa, chuối và dừa đang trở thành trụ cột của ngành cây ăn quả Việt Nam. Trong đó, chuối dẫn đầu về sản lượng với 3 triệu tấn/năm, kế đến là dừa với 2,28 triệu tấn, dứa 860.000 tấn và chanh dây 163.000 tấn.

Về xuất khẩu, chuối đạt gần 380 triệu USD, chanh dây hơn 222 triệu USD, dứa khoảng 34 triệu USD, còn dừa đã vượt mốc 1,1 tỷ USD trong năm 2024. Các sản phẩm này đã hiện diện ở những thị trường khó tính như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, và giữ thị phần lớn tại Trung Quốc.

Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đánh giá, những con số này cho thấy tiềm năng vươn xa của trái cây Việt nếu được tổ chức lại ngành hàng một cách bài bản, từ giống, vùng trồng đến chế biến và xây dựng thương hiệu.


Nguồn: /Báo NNVN và MT