Được ví là “vua trái cây xuất khẩu” của Việt Nam, song sầu riêng đang đối mặt “cú trượt dài” chưa từng có. Nhiều lô hàng bị Trung Quốc phát hiện vượt dư lượng cadimi cho phép, khiến xuất khẩu sầu riêng rơi vào tình trạng “tê liệt”, tác động tới cả doanh nghiệp và nông dân.


Để phát triển bền vững, nâng cao vị thế, theo lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, ngành hàng sầu riêng cần chuyển sang giai đoạn mới từ tăng trưởng về lượng sang phát triển có kiểm soát, có chiều sâu, có trách nhiệm và có thương hiệu theo đúng yêu cầu của thị trường.

Theo thông tin từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong vòng chưa đầy 3 năm, sầu riêng đã vươn lên trở thành một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực, lớn nhất trong các mặt hàng rau quả của Việt Nam, mang về hơn 3,2 tỷ USD trong năm 2024, con số kỷ lục đáng tự hào của nông sản Việt. Nhưng cũng chính vì hào quang đó, xuất khẩu sầu riêng đang phải đối mặt với nhiều hệ lụy từ tăng trưởng nóng, gian lận mã số vùng trồng, sản xuất thiếu đồng bộ, thiếu kiểm soát chất lượng đầu vào, và gần đây nhất - thị trường Trung Quốc liên tục cảnh báo về dư lượng cadimi vượt ngưỡng trong sầu riêng Việt Nam.
Người tiêu dùng, doanh nghiệp và nông dân đều lo lắng khi sầu riêng Việt Nam bị một số thị trường liệt vào diện nghi vấn, theo dõi đặc biệt. Thậm chí, có đánh giá khắt khe rằng đây là hàng kém chất lượng, thậm chí “độc hại” - điều rất xót xa, đẩy ngành này vào khủng hoảng niềm tin. Nếu không cải tổ toàn diện, ngành hàng tỷ USD có thể “gục ngã bất cứ lúc nào”.

Hàng loạt lô hàng sầu riêng bị trả về. Doanh nghiệp điêu đứng, bị thiệt hại nặng; còn nông dân hoang mang nhìn nông sản rớt giá. Đáng lo hơn là, hình ảnh sầu riêng Việt - được vun trồng bằng mồ hôi và hy vọng của người nông dân đang bị đặt vào vòng nghi ngờ về kiểm soát chất lượng và an toàn thực phẩm.
Ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội rau quả Việt Nam, cho hay, việc nhiều lô sầu riêng của Việt Nam xuất sang Trung Quốc bị phát hiện chứa dư lượng kim loại nặng cadimi vượt ngưỡng quy định đã và đang tạo ra những tác động tiêu cực và nhiều mặt đối với ngành hàng tỷ USD.
Không chỉ là cảnh báo về an toàn thực phẩm, sự cố này còn là bài kiểm tra khắc nghiệt về năng lực quản lý chất lượng, uy tín thương hiệu và sự bền vững của hoạt động xuất khẩu nông sản chủ lực của Việt Nam. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng nhiễm cadimi được các cơ quan chuyên môn và chuyên gia xác định là do sự tích tụ kim loại nặng trong đất, chủ yếu có thể xuất phát từ việc lạm dụng phân bón hóa học, đặc biệt là các loại phân bón có gốc lân (như DAP) trong thời gian dài.
Một thực trạng “rất đau lòng” cũng được ông Nguyên nêu: Doanh nghiệp buộc phải “mua đứt” hàng trong vườn trước khi được phép mang đi xét nghiệm. Nếu phát hiện dư lượng cadimi, doanh nghiệp lãnh đủ. Nếu không, mới được phép thông quan. Hình thức này biến hoạt động mua sầu riêng thành trò “đánh bạc”, không ai dám chắc thành công.
Hệ quả là chỉ trong 4 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam chỉ đạt 183 triệu USD, giảm 60,9% so với cùng kỳ năm 2024. Riêng thị trường Trung Quốc vốn chiếm đến 90% lượng xuất khẩu chỉ đạt 57 triệu USD, giảm đến 75,5%.
Đi sâu vào nguyên nhân gốc rễ, ông Nguyên cho rằng, tình trạng lạm dụng phân bón hóa học chứa kim loại nặng, sử dụng chất cấm vàng O để xử lý vỏ quả, kéo dài thời gian bảo quản, tạo màu vàng bắt mắt là “ngòi nổ tiềm tàng”. Dù nhiều doanh nghiệp khẳng định không sử dụng nhưng hóa chất vẫn bị phát hiện cho thấy lỗ hổng rất lớn trong quản lý đầu vào.
Sự cố này đã phơi bày những điểm yếu cố hữu của một ngành hàng phát triển quá “nóng”: Thiếu kiểm soát toàn diện chuỗi cung ứng - từ vật tư đầu vào (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật) đến quy trình canh tác tại vườn và xử lý sau thu hoạch. Sản xuất chạy theo số lượng - việc ồ ạt mở rộng diện tích, chạy theo năng suất mà chưa chú trọng đúng mức đến các tiêu chuẩn chất lượng bền vững. Sự lỏng lẻo trong quản lý và sử dụng mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói - dẫn đến tình trạng khi một lô hàng vi phạm, uy tín của cả một vùng, thậm chí cả quốc gia bị ảnh hưởng.

Để ngành hàng sầu riêng trở lại “đường đua”, phát triển bền vững, Tổng Thư ký Hiệp hội rau quả Việt Nam Đặng Phúc Nguyên cho hay, chúng ta phải thiết lập hệ thống giám sát chất lượng từ gốc, tăng cường khâu kiểm nghiệm tại cơ sở sản xuất sầu riêng.
Xây dựng các chương trình giám sát an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật ngay tại vườn trồng và cơ sở đóng gói sầu riêng bằng cách mở rộng danh sách và nâng cao năng lực cho nhiều phòng xét nghiệm đủ chuẩn phủ kín các vùng trồng sầu riêng. Sau này việc truy xuất nguồn gốc sẽ chính xác, rõ ràng khi các cơ quan chức năng Việt Nam hay Trung Quốc cần truy xuất về mã số, tồn dư chất cấm... của sầu riêng xuất khẩu.

Về xử lý nghiêm các vi phạm, cần ban hành các quy định, chế tài đủ mạnh để xử lý các hành vi vi phạm về chất lượng, an toàn thực phẩm và gian lận thương mại.
Ông Nguyên cho rằng, nếu chúng ta tổ chức được hệ thống lọc hàng tại các vườn trồng sầu riêng một cách chính xác, hiệu quả, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường hay Chính phủ mới có căn cứ để đàm phán với hải quan Trung Quốc mở “luồng xanh” bền vững cho sầu riêng Việt Nam thông quan nhanh chóng và không bị trả hàng về nhiều như hiện nay.
Về lâu dài, cần quy hoạch vùng trồng tập trung và bền vững; siết chặt quản lý và cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói; kiểm soát chặt chẽ vật tư đầu vào; thay đổi quy trình canh tác; xây dựng thương hiệu quốc gia…
Để gỡ nút thắt tồn dư hóa chất trong sầu riêng, ông Nguyễn Đỗ Dũng, Tổng Giám đốc Công ty Công nghệ Nông nghiệp Enfarm tại Tây Nguyên, cho hay, cần ứng dụng AI kiểm soát tồn dư hóa chất trong sầu riêng.
Theo đó, khi sử dụng AI, hệ thống sẽ xác định các khu vực có nguy cơ cao, từ đó đưa ra biện pháp cải tạo đất phù hợp. Công nghệ này giúp giảm đến 70% số mẫu quả cần xét nghiệm, tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian xử lý so với phương pháp thủ công. “Enfarm đã xây dựng nền tảng số hỗ trợ lấy mẫu, phân tích và trả kết quả nhanh, góp phần nâng cao chất lượng trái và giá trị nông sản”, ông Dũng nói.
Trong khi đó, ông Nguyễn Quang Hiếu, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cho rằng, không nên đổ lỗi hoàn toàn cho phân bón DAP. Theo ông, sự thay đổi độ pH trong đất khi vào vụ có thể khiến cadimi hòa tan nhiều hơn. Một số phân hữu cơ có hàm lượng cadimi cao hơn loại vô cơ do nguyên liệu là bùn thải, chất trộn không rõ nguồn gốc. Mắt xích khác là kiểm tra chất lượng và mã số vùng trồng chưa nghiêm. Doanh nghiệp vẫn xuất hàng khi chưa có thiết bị test nhanh cadimi trước khi thông quan.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), cadimi là kim loại nặng độc hại có khả năng phá hủy hệ thần kinh, gây ung thư và các bệnh mạn tính khác. Một số lô hàng đã bị trả về, đặt ra thách thức không nhỏ cho ngành hàng sầu riêng.
Theo ông Nguyễn Văn Mười, Phó trưởng Chi nhánh phía Nam - Hội Làm vườn Việt Nam, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Rau, quả Việt Nam, quy hoạch đến năm 2030 chỉ cho phép diện tích trồng sầu riêng đạt mức 75.000ha. Thế nhưng, chỉ mới năm 2024, diện tích thực tế của nước ta đã vượt gần ba lần, đạt khoảng 180.000ha, sản lượng hơn 1,5 triệu tấn. Sự bùng nổ không kiểm soát này kéo theo hệ lụy về quản lý chất lượng, trong đó cadimi là ví dụ rõ ràng.
Lâm Đồng, nằm trên cao nguyên với khí hậu ôn hòa quanh năm và nền đất đỏ bazan giàu dưỡng chất, là một trong những địa phương có điều kiện tự nhiên lý tưởng để phát triển sầu riêng. Năm 2024, toàn tỉnh có hơn 37.810 ha sầu riêng, sản lượng đạt trên 235.000 tấn.
Trước mối đe dọa từ cadimi, Lâm Đồng - một trong những thủ phủ sầu riêng cả nước đã chủ động vào cuộc. Tiêu biểu là Câu lạc bộ (CLB) Sầu riêng Thiên Phú - Nhân Cơ ở xã Nhân Cơ với hơn 40 thành viên, quản lý 500 ha canh tác. Từ tháng 3/2025, CLB đã tiến hành lấy mẫu đất xét nghiệm. Kết quả ban đầu cho thấy khả năng xử lý cadimi hiệu quả khi sử dụng chế phẩm sinh học, giúp giảm tới 60% lượng cadimi chỉ sau một tháng.
Anh Nguyễn Thái Bình, Chủ nhiệm CLB Sầu riêng Thiên Phú - Nhân Cơ cho biết, chi phí xử lý cadimi khoảng 4 triệu đồng/ha. Hiện, CLB đã áp dụng trên 200ha và hướng tới mục tiêu “zero cadimi” trên toàn vùng. Các thành viên cũng áp dụng quy trình sản xuất sinh học, chia sẻ kinh nghiệm và cập nhật công nghệ nhằm kiểm soát tốt nhất các yếu tố nguy cơ trong canh tác.

Sự chủ động từ nông dân chính là chìa khóa kiểm soát rủi ro cadimi. Câu chuyện của ông Nguyễn Ngọc Trung, chủ trang trại sầu riêng Gia Trung, phường Đông Gia Nghĩa, là ví dụ tiêu biểu cho tinh thần chủ động thích ứng. Với 17ha sầu riêng trồng trên 20 năm, ông Trung đầu tư máy đo cadimi trị giá 7 triệu đồng và sử dụng chế phẩm sinh học Canxi Chelate (Ca-EDTA) chỉ với chi phí 400.000 đồng/ha. “Tôi đã sản xuất theo quy trình VietGAP nhiều năm, nhưng trước nguy cơ cadimi, tôi quyết định xử lý cho toàn bộ diện tích. Mục tiêu là bảo đảm chất lượng, giữ vững thương hiệu và an toàn cho người tiêu dùng”, ông Trung khẳng định.
TS.Nguyễn Đăng Nghĩa, chuyên gia về đất và dinh dưỡng cây trồng cho biết, cadimi chủ yếu hình thành do lạm dụng phân bón hóa học, đặc biệt là phân DAP và lân. Khi đất bị giảm pH, cadimi chuyển hóa thành dạng hòa tan, dễ bị cây hấp thụ. Trong điều kiện thiếu trung lượng và vi lượng, cây sẽ hút cadimi nhiều hơn.
Vì vậy, giải pháp kỹ thuật là, nông dân cần tăng độ pH đất bằng vôi hoặc chất cải tạo. Người trồng có thể chọn trồng xen cây hấp thụ cadimi để lọc đất, chuyển sang sử dụng phân hữu cơ và chế phẩm sinh học, giảm dần phân hóa học. Người trồng cần kiểm tra thành phần phân bón và lưu giữ bao bì để truy xuất nguồn gốc.
Bà Lê Thị Minh Nguyệt, đại diện Công ty TNHH Công nghệ NHONHO, đơn vị kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm cho biết, một số hóa chất vô cơ như chất vàng ô (Auramine O) trong thuốc bảo vệ thực vật cũng là nguy cơ tồn dư cadimi. Do vậy, nông dân cần thận trọng trong lựa chọn sản phẩm, nhất là không dùng thuốc chứa kim loại nặng gần thời điểm thu hoạch.
Chung tay với nông dân, chính quyền và ngành chức năng Lâm Đồng đã triển khai nhiều giải pháp để kiểm soát dư lượng kim loại nặng. Theo đó, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Lâm Đồng đã tổ chức các đợt kiểm tra vùng trồng và cơ sở đóng gói. Một loạt doanh nghiệp lớn như Công ty Long Thủy, B’LaoFood, Inova Đà Lạt... đều được kiểm tra và lấy mẫu. Kết quả, không phát hiện cadimi, vàng ô hay các chất cấm, cho thấy ý thức sản xuất an toàn đang dần hình thành trong toàn ngành.
Trong tổng số khoảng 180.000ha sầu riêng của nước ta thì Lâm Đồng có trên 37.810ha. Diện tích sầu riêng của Việt Nam chưa có dấu hiệu dừng lại mà tiếp tục tăng. Việc phát triển ồ ạt sầu riêng đặt ra thách thức lớn về quy hoạch và kiểm soát chất lượng. Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cảnh báo về các nguy cơ từ vùng trồng manh mún, thiếu nước tưới và lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật.
Trước tình hình trên, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang hoàn thiện quy trình kiểm dịch sầu riêng, xây dựng vùng trồng tập trung, khuyến khích rải vụ thu hoạch và phối hợp với Hải quan Trung Quốc để tháo gỡ các rào cản kỹ thuật.
Song song, ngành hàng sầu riêng cần một chiến lược dài hạn. Đó là, sầu riêng cần có chuỗi sản xuất minh bạch, mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói đạt chuẩn. Phát triển chế biến sâu như sầu riêng đông lạnh, sầu riêng sấy để tăng giá trị và giảm phụ thuộc thị trường tươi. Kiểm nghiệm chất lượng bắt buộc, minh bạch thông tin và ứng dụng công nghệ số trong quản lý chuỗi cung ứng.

Gia Lai - một trong những địa phương có diện tích sầu riêng lớn của Tây Nguyên đang thúc đẩy mạnh mẽ mô hình “Hành động tập thể”. Thay vì sản xuất đơn lẻ, các hộ dân được khuyến khích liên kết thành nhóm hộ, HTX và phối hợp với doanh nghiệp xuất khẩu. Chính sự đồng lòng, gắn kết trong sản xuất-tiêu thụ đang trở thành chìa khóa để nâng cao giá trị và đảm bảo tính bền vững của ngành hàng này.
Những năm gần đây, mô hình liên kết sản xuất-tiêu thụ được triển khai hiệu quả tại nhiều địa phương của Gia Lai, trong đó, nổi bật là các HTX đã năng động, chủ động tổ chức lại sản xuất theo chuẩn quốc tế.
Tại xã Ia Le, HTX Nông nghiệp Hữu cơ Đại Ngàn đang liên kết với 56 hộ trồng sầu riêng. Từ năm 2022, HTX đã được cấp 6 mã số vùng trồng cho 29ha, đủ điều kiện xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc. Mỗi năm, HTX cung cấp khoảng 400-450 tấn sầu riêng sạch cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Bà Lê Thị Diễm, Giám đốc HTX, cho biết: “Chúng tôi thành lập HTX để tập hợp những hộ dân có chung định hướng sản xuất sạch và bền vững. Việc sản xuất theo quy trình VietGAP và được cấp mã số vùng trồng không chỉ là điều kiện bắt buộc để xuất khẩu, mà còn giúp nâng cao giá trị trái sầu riêng. Người dân làm theo quy trình, thương lái đến tận nơi thu mua với giá tốt hơn”.
Tại xã Chư Păh, HTX Dịch vụ Nông nghiệp Nghĩa Hòa cũng đang triển khai mô hình tương tự. Từ việc hỗ trợ xây dựng hồ sơ cấp mã số vùng trồng đến việc hướng dẫn bà con sử dụng phân bón hữu cơ, HTX đóng vai trò cầu nối giữa người nông dân và doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc HTX Dịch vụ Nông nghiệp Nghĩa Hòa, chia sẻ: “Chúng tôi tận dụng những buổi gặp gỡ hàng ngày để tuyên truyền, hướng dẫn bà con. Khi sản xuất đúng chuẩn, sầu riêng được thu mua ổn định, giá cao”.
Để đảm bảo an toàn thực phẩm và đạt chuẩn xuất khẩu, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Gia Lai đã ban hành bộ hướng dẫn kỹ thuật sản xuất sầu riêng đạt chuẩn VietGAP và GlobalGAP.
Ông Hoàng Thi Thơ, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Gia Lai, cho biết: “Nội dung hướng dẫn rất cụ thể, từ sử dụng phân bón sinh học, cắt tỉa đúng kỹ thuật, đến phòng trừ sâu bệnh và thích ứng biến đổi khí hậu. Tuyệt đối cấm sử dụng hóa chất nằm ngoài danh mục”.
Gia Lai đang tích cực quy hoạch vùng chuyên canh sầu riêng, gắn với xây dựng mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói và đẩy mạnh liên kết với doanh nghiệp xuất khẩu. Theo ông Thơ, điều quan trọng là tổ chức sản xuất theo chuỗi khép kín, trong đó, nông dân liên kết với nhau thành tổ nhóm hoặc HTX. Doanh nghiệp, HTX là cầu nối kỹ thuật và quản lý quy trình. Doanh nghiệp đảm bảo bao tiêu sản phẩm và mở rộng thị trường.
“Chỉ khi có sự phối hợp đồng bộ, sầu riêng mới có thể đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu, gồm: chất lượng ổn định, sản lượng lớn, giao hàng đúng thời gian”, ông Thơ nhấn mạnh.
Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh đã kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với phía Trung Quốc tháo gỡ các vấn đề kỹ thuật, đồng thời đẩy nhanh tiến độ cấp mã số mới để kịp phục vụ vụ thu hoạch sắp tới.

Tại tỉnh Đắk Lắk, “thủ phủ sầu riêng” của Việt Nam, chuẩn bị bước vào chính vụ thu hoạch từ khoảng tháng 8 đến tháng 10 hằng năm. Đây là thời điểm những trái sầu riêng đạt chất lượng thơm ngon nhất, với các vùng trồng nổi tiếng như Krông Pắc, Cư M’gar, Ea H’leo, Krông Năng…, cung cấp sản lượng lớn cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, mùa vụ sầu riêng tại Đắk Lắk trong những năm gần đây phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức.
Chủ tịch Hiệp sầu riêng Đắk Lắk Lê Anh Trung cho biết, muốn xây dựng được chuỗi xuất khẩu bền vững thì phải kết nối trực tiếp từ người sản xuất đến doanh nghiệp xuất khẩu đủ điều kiện, dần định hình vai trò của các thương lái, những người có kinh nghiệm và hiểu rõ vùng trồng; vì vậy, họ sẽ trở thành bộ phận thu mua chuyên trách cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Chỉ khi mọi hoạt động thu mua đi vào hệ thống, có kiểm soát và phối hợp rõ ràng thì thị trường mới không rơi vào tình trạng rối loạn.

Chính vì vậy, Hiệp hội đã tổ chức hàng loạt hoạt động xúc tiến thương mại thiết thực và có chiều sâu, như: Kết nối 1-1 giữa HTX, tổ nhóm nông dân với các doanh nghiệp đã được cấp mã đóng gói, đủ điều kiện xuất khẩu chính ngạch. Tổ chức hội nghị xúc tiến theo vùng, nơi doanh nghiệp được gặp trực tiếp nông dân, xem hồ sơ vùng trồng, kiểm tra mã số và kỹ thuật canh tác.
Đưa doanh nghiệp về khảo sát vùng trồng thực tế, giúp họ chủ động đặt hàng kỹ thuật ngay từ đầu vụ: từ giống cây, phân thuốc, nhật ký điện tử đến quy trình thu hoạch và đóng gói. Điều này không chỉ giúp nông dân có đầu ra rõ ràng, giá tốt, mà còn giúp doanh nghiệp kiểm soát chất lượng ngay từ gốc, hạn chế rủi ro bị trả hàng, bị kiểm tra đột xuất khi xuất khẩu. Vai trò của Hiệp hội ở đây không chỉ là người tổ chức mà còn là người bảo chứng – xác minh – điều phối toàn bộ chuỗi liên kết, tạo niềm tin hai chiều và thúc đẩy sự phát triển lâu dài, minh bạch và có trách nhiệm cho ngành hàng sầu riêng Đắk Lắk.
“Giá trị lớn nhất mà Hiệp hội mang lại, theo tôi, không chỉ là những con số mà là sự thay đổi tư duy và cách làm toàn diện cho cả chuỗi ngành hàng. Chúng tôi không làm thay nông dân, không kinh doanh thay doanh nghiệp, nhưng chúng tôi kết nối họ lại, từ đó để cùng nhau tạo ra một hệ sinh thái sản xuất và xuất khẩu sầu riêng bài bản, minh bạch và có trách nhiệm. Khi có niềm tin, có trật tự, có tiêu chuẩn, thì giá trị sầu riêng Việt Nam mới được nâng lên thật sự. Hiệp hội đóng vai trò “bàn tay thứ ba” – không can thiệp hành chính, cũng không theo cơ chế thị trường thuần túy mà là “bàn tay” kiến tạo, thiết lập quy chuẩn, bảo vệ lợi ích chung, điều tiết rủi ro và giữ gìn uy tín quốc gia. Cuối cùng, điều quan trọng nhất mà chúng tôi đang hướng đến, đó là: giúp người trồng sầu riêng tự tin hơn, doanh nghiệp xuất khẩu vững vàng hơn và thị trường quốc tế nhìn ngành sầu riêng Việt Nam với ánh mắt tôn trọng”, ông Lê Anh Trung chia sẻ.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường dự báo, xuất khẩu sầu riêng tươi có khả năng phục hồi từ quý III năm nay, đặc biệt là vào mùa vụ chính từ tháng 8 đến tháng 10. Tuy nhiên, mức độ phục hồi vẫn phụ thuộc lớn vào việc doanh nghiệp và nông dân có duy trì được điều kiện an toàn thực phẩm như cam kết hay không. Nếu tình trạng vi phạm vẫn tái diễn thì rủi ro xuất khẩu với ngành hàng này vẫn còn rất lớn.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, nhằm gỡ khó cho xuất khẩu sầu riêng, Bộ đã chính thức mời đoàn chuyên gia từ Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) sang Việt Nam kiểm tra thực địa chuỗi sản xuất và xuất khẩu sầu riêng từ ngày 12 đến 17/7/2025.

Đây là động thái nối tiếp sau chuyến công tác cấp cao do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường dẫn đầu tới Bắc Kinh hồi tháng 5, nhằm thúc đẩy hợp tác song phương về nông sản.
Đợt kiểm tra thực địa này của GACC là cơ hội để Việt Nam chứng minh năng lực kiểm soát chất lượng chuỗi sầu riêng xuất khẩu, đồng thời khẳng định cam kết tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của phía Trung Quốc - thị trường tiêu thụ sầu riêng lớn nhất của Việt Nam hiện nay.
Về mặt kỹ thuật, Cục cũng đã yêu cầu các phòng thử nghiệm tăng công suất kiểm tra cadimi và vàng O. Đến nay, đã có 24 phòng thử nghiệm cadimi và 14 phòng thử nghiệm vàng O đã được GACC phê duyệt.
Bộ đã hoàn thành dự thảo Thông tư hướng dẫn cấp và quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói theo hướng chặt chẽ, minh bạch và thực tiễn.
Thông tư đang trong giai đoạn tổng hợp ý kiến, góp ý của các ban, bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, tổ chức cá nhân tham gia chuỗi xuất khẩu và dự kiến sớm ban hành trong thời gian tới. Đây được xem là một trong những khâu trọng yếu giúp sản phẩm đảm bảo đạt chuẩn ở khâu cuối cùng trước khi lên đường ra thị trường quốc tế.
Tính đến tháng 6/2025, đã có 1.396 mã số vùng trồng và 188 cơ sở đóng gói sầu riêng được cấp mã số, đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc.
Ông Đỗ Hồng Khanh, Chánh Văn phòng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, cho biết, xuất khẩu sầu riêng gặp nhiều khó khăn từ đầu năm do một số thị trường tăng cường kiểm soát an toàn thực phẩm. Các vấn đề như dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt ngưỡng, nhiễm kim loại nặng và hóa chất cấm là nguyên nhân chính khiến nhiều lô hàng bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên, trong những tháng gần đây, nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ, các địa phương, doanh nghiệp và nông dân, ngành sầu riêng đã dần phục hồi, từng bước lấy lại đà tăng trưởng xuất khẩu.
Trong 6 tháng đầu năm, Việt Nam xuất khẩu 5.217 lô sầu riêng tươi với sản lượng gần 130.000 tấn. Tuy nhiên, đối với sầu riêng đông lạnh, xuất khẩu được 388 lô với sản lượng 14.282 tấn, tăng 310% so với cùng kỳ năm 2024.
Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho rằng, sự tăng trưởng của sầu riêng đông lạnh là nhờ tác động tích cực từ Nghị định thư xuất khẩu sầu riêng đông lạnh sang Trung Quốc ký kết tháng 8/2024. Ngoài ra, việc đầu tư vào chế biến sâu và mở rộng kho lạnh cũng giúp tăng sức cạnh tranh cho mặt hàng này trên thị trường quốc tế.
Đồng thời, dưới sự chỉ đạo, định hướng kịp thời của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, các địa phương, việc chế biến sâu, mở rộng thị trường đã phản ánh nỗ lực đa dạng hóa sản phẩm, giảm phụ thuộc vào thị trường sầu riêng tươi và giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội để xuất khẩu sầu riêng đông lạnh.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp sẵn sàng đầu tư dây chuyền chế biến và kho lạnh hiện đại, đáp ứng các tiêu chuẩn của Trung Quốc và các thị trường tiềm năng như Hàn Quốc, Nhật Bản, EU...
Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho rằng, mức phục hồi vẫn phụ thuộc lớn vào việc doanh nghiệp và nông dân duy trì điều kiện an toàn thực phẩm như cam kết. Nếu tình trạng vi phạm vẫn còn tái diễn thì rủi ro xuất khẩu với ngành hàng này vẫn còn rất lớn.
Một lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, cần xác định sầu riêng là sản phẩm chiến lược quốc gia để có sự đầu tư thỏa đáng.
Phát triển ngành hàng sầu riêng không chỉ là cơ hội phát triển kinh tế mà còn là trách nhiệm với người nông dân, với uy tín nông sản quốc gia. Ngành hàng sầu riêng đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới từ tăng trưởng về lượng sang phát triển có kiểm soát, có chiều sâu, có trách nhiệm và có thương hiệu theo đúng yêu cầu của thị trường. Đây là đòi hỏi tất yếu của ngành hàng nông sản có tầm vóc quốc gia và khu vực. Các địa phương, doanh nghiệp, HTX và người dân cùng nhau cam kết chuyển biến từ nhận thức đến hành động thực tế để xây dựng ngành hàng sầu riêng Việt Nam trở thành hình mẫu của nông sản chất lượng cao, có nguồn gốc minh bạch, trách nhiệm và sản xuất bền vững.